Thành công của năm 2019 là nhờ nội lực chứ không phải may rủi
Chính sách tiền tệ năm 2019: Chủ động, linh hoạt, bám sát diễn biến kinh tế vĩ mô | |
Kinh tế năm 2019: Vượt mục tiêu |
TS. Nguyễn Đức Kiên |
12 chỉ tiêu của nền kinh tế đều đạt và vượt mức, đồng thời nhiều kỷ lục mới trong các lĩnh vực tiếp tục được thiết lập. Cá nhân ông đánh giá như thế nào về kết quả này?
Thực ra chúng ta thường chỉ nhìn vào các con số nên cũng chỉ nhìn thấy bề nổi mà chưa đi sâu vào những vấn đề thực chất đằng sau đó. Trong bối cảnh kinh tế thế giới có nhiều biến động như năm 2019, trong lúc hầu hết các nền kinh tế lớn đều có tốc độ tăng trưởng ở mức trung bình, đặc biệt là chỉ tiêu xuất khẩu, thì nền kinh tế của chúng ta vẫn duy trì được tốc độ của năm 2018. Vì vậy có thể nói về mặt vĩ mô, chưa có năm nào Chính phủ điều hành một cách tự tin và có bài bản như năm 2019.
Tôi cho rằng thành công lớn nhất về góc độ điều hành vĩ mô là Chính phủ rất kiên định lập trường trong hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô; nhưng rất linh hoạt trong điều hành, căn cứ trên các tín hiệu của thị trường. Đây là yếu tố then chốt làm nên thành công của các biện pháp điều hành kinh tế vĩ mô. Vì vậy có thể kết luận rằng thành công của năm 2019 là nhờ nội lực của chính chúng ta chứ không phải là may rủi, vì may rủi thì không thể 2 năm liền có tốc độ tăng trưởng trên 7% như vậy.
Ông có thể phân tích cụ thể hơn về một số điểm sáng trong điều hành kinh tế cho thấy thành công của năm 2019 là do nội lực?
Có thể nói năm 2019 đã xảy ra khá nhiều “điểm nóng” cần đến sự ứng phó kịp thời ở cả bên ngoài và bên trong. Chẳng hạn trong lĩnh vực ngân hàng, khi bị đưa vào danh sách các quốc gia có nguy cơ điều tra thao túng tiền tệ, chúng ta đã có những động tác vừa truyền thống, vừa “phi truyền thống” để khiến cho đối tác thương mại lớn thứ 2 của chúng ta cảm thấy yên tâm.
Ngân hàng Nhà nước đã phối hợp với các bộ, ngành liên quan như Công thương, Ngoại giao để cung cấp thông tin kịp thời xử lý các vấn đề mà đối tác thương mại lớn như Hoa Kỳ quan tâm, từ đó khẳng định với các đối tác thương mại là chúng ta điều hành chính sách tiền tệ và tỷ giá theo diễn biến của thị trường, và không dùng tỷ giá để tạo cạnh tranh thương mại bất bình đẳng với các đối tác mà chúng ta có quan hệ thương mại.
Bên cạnh đó, Việt Nam cũng thể hiện là đối tác có trách nhiệm đối với các đối tác thương mại chủ chốt của chúng ta. Việc chúng ta chủ động liên hệ với các cơ quan chức năng của Hoa Kỳ trong việc xác định chứng chỉ C/O cho các sản phẩm nhôm của doanh nghiệp FDI tại Việt Nam được đối tác Hoa Kỳ đánh giá cao về sự hợp tác và đảm bảo sự bình đẳng, chống gian lận thương mại. Trong năm 2019 khi một số ngành hàng ở Việt Nam có tốc độ tăng trưởng xuất khẩu rất cao, Chính phủ cũng đã chỉ đạo các cơ quan chức năng rà soát, kiểm tra và khi phát hiện có sai phạm về xuất xứ đã xử lý kiên quyết.
Hay như trong bối cảnh dịch tả lợn châu Phi diễn ra, chúng ta cũng có những động thái kịp thời vừa để trấn an thị trường, nhưng đồng thời cũng cảnh báo những nhà đầu cơ, những người lợi dụng sự rủi ro do thiên tai dịch bệnh để kiếm lời.
Nếu như vậy thì năm 2020 dường như sẽ chỉ có thuận lợi để phát triển kinh tế, có đúng không thưa ông?
Đúng là chúng ta bước vào năm 2020 với nhiều điểm sáng đáng tự hào. Nhưng đây cũng chính là áp lực rất lớn đặt ra cho năm cuối của nhiệm kỳ kế hoạch 5 năm 2016-2020. Trong năm 2019 vừa qua, chúng ta đã nhìn ra các lợi thế của Việt Nam mà những lợi thế này được quốc tế công nhận. Nhưng nếu chúng ta không có những thay đổi phù hợp để đảm bảo win – win trong quan hệ thương mại giữa hai bên mà cứ say sưa với thành tích thì sẽ gặp khó khăn. Chính vì vậy ngay trong Nghị quyết 01, Chính phủ cũng đã chỉ ra những hướng đi mới để đảm bảo nền kinh tế vĩ mô ổn định, phát triển với tốc độ tiệm cận với tiềm năng của đất nước, và không gây những xung đột mới trong lĩnh vực thương mại.
Chính phủ đã nhìn ra được những dư địa của năm 2020 có thể tăng trưởng. Đó là thị trường EU, chúng ta vừa mới ký Hiệp định thương mại tự do và Hiệp định bảo hộ đầu tư với EU nhưng tốc độ tăng trưởng xuất khẩu sang khu vực này lại không tăng trong năm vừa qua. Vì vậy nếu không đạt được đột phá thông qua 2 hiệp định này thì xuất khẩu của Việt Nam và EU vẫn tiếp tục gặp khó khăn. Trong lúc đó thị trường Mỹ chúng ta đạt tăng trưởng tới gần 28%, nếu không có biện pháp kiểm soát chặt chẽ xuất xứ hàng hoá thì chúng ta cũng sẽ gặp khó khăn trong việc duy trì thị trường này.
Bên cạnh đó, chúng ta cũng chú trọng tới nguồn nội lực. Một trong những nguồn lực chưa được tận dụng tốt của năm 2019 chính là vốn đầu tư công. Vì như các nhà khoa học đều nói, một đồng vốn đầu tư công bỏ ra có thể huy động được 4-5 đồng vốn của xã hội vào đầu tư phát triển. Nhưng năm 2019 giải ngân đầu tư công vẫn không đạt kế hoạch. Như vậy tốc độ tăng trưởng kinh tế của 2 năm vừa qua không dựa nhiều vào vốn đầu tư công, mà chủ yếu là từ khối DN nội địa và FDI. Như vậy nếu sang năm 2020 chúng ta xử lý tốt vấn đề đầu tư công thì nếu kinh tế thế giới có biến động, chúng ta vẫn có khả năng đạt được mục tiêu tăng trưởng đã đặt ra.
Trong bối cảnh đó, ông có khuyến nghị gì đối với Chính phủ trong công tác điều hành năm 2020?
Có lẽ bên cạnh những vấn đề đã được Chính phủ nêu ra trong Nghị quyết 01 vừa được lấy ý kiến và trình bày tại hội nghị của Chính phủ với các địa phương triển khai nhiệm vụ năm 2020, cần phải tập trung vào 4 nhóm lĩnh vực.
Thứ nhất là ổn định kinh tế vĩ mô mà quan trọng nhất là đảm bảo sự ổn định của hệ thống tài chính. Theo đó, cần phải áp dụng tiêu chuẩn Basel 2 cho 100% các TCTD, đồng thời với việc kiểm soát tín dụng trong lĩnh vực bất động sản, phòng ngừa rủi ro hệ thống. Ngân hàng Nhà nước cần tiếp tục định hướng cho các NHTM có lãi suất phù hợp đối với những lĩnh vực mà Chính phủ ưu tiên phát triển, đồng thời với việc tăng dự trữ ngoại hối một cách hợp lý. Bên cạnh việc khuyến khích phát triển thị trường trái phiếu DN, cần sớm ban hành các nghị định và thông tư hướng dẫn để triển khai Luật Chứng khoán để có thể giám sát và hạn chế các DN phát hành trái phiếu với lãi suất cao bất thường, tiềm ẩn rủi ro.
Nhóm vấn đề thứ hai cần phải đặc biệt lưu ý trong năm 2020 là nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực đầu tư công, tập trung vốn đầu tư công và huy động các nguồn vốn đầu tư khác để đẩy nhanh tiến độ triển khai và hoàn thành các dự án trọng điểm quốc gia như tuyến đường cao tốc phía Đông, sân bay Long Thành giai đoạn 1, tuyến cao tốc kết nối TP. Hồ Chí Minh với các vùng kinh tế trọng điểm…
Nhóm vấn đề thứ ba là tiếp tục đổi mới, sắp xếp và nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN theo hướng làm rõ vai trò của chủ sở hữu và vai trò của đại diện chủ sở hữu tại DN với tư cách là người quản trị DN, để từ đó tiến hành sửa đổi nghị định về chức năng nhiệm vụ của Ủy ban quản lý vốn Nhà nước tại DN. Xây dựng bộ quy tắc quản trị DNNN mẫu dựa trên bộ quy tắc của OECD để đảm bảo phù hợp với thông lệ quốc tế và điều kiện của Việt Nam.
Nhóm cuối cùng là cải cách thể chế kinh tế thị trường, cải thiện môi trường kinh doanh gắn với cải cách hành chính. Tiến hành rà soát lại các hệ thống luật để tìm ra những điểm bất cập chồng chéo, có kế hoạch sửa đổi theo phương thức 1 luật sửa nhiều luật để đảm bảo việc đầu tư được triển khai thuận lợi, gắn việc cải cách hành chính với Chính phủ điện tử để từ đó giám sát việc cải thiện môi trường kinh doanh, hạn chế tối đa việc công chức sử dụng “quyền lực mềm” nhũng nhiễu DN. Cần có cơ chế phân định rõ trách nhiệm của các bộ, ngành và địa phương để giảm tối đa các vụ việc thuộc thẩm quyền quyết định của bộ ngành, địa phương chuyển lên Chính phủ.
Xin cảm ơn ông!