Thời cơ vàng để Việt Nam thu hút FDI từ EU
Tại tọa đàm “FDI của EU vào Việt Nam trong bối cảnh thực thi EVFTA và EVIPA” diễn ra sáng 25/10, các chuyên gia đến từ Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) cho rằng, lợi thế mà EVFTA mang lại cho Việt Nam chỉ là ngắn hạn khi các nước ASEAN như Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Indonesia cũng đang tích cực đàm phán FTA với EU, nên cần tranh thủ "thời gian vàng" đi trước để hút FDI.
Tranh thủ “thời gian vàng” thu hút FDI
TS. Nguyễn Thị Thanh Mai, giảng viên Đại học Swinburne Việt Nam cho hay, EVFTA và EVIPA được đàm phán giữa bối cảnh quan hệ song phương ngày càng phát triển tốt đẹp, thực chất và sâu sắc, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế, thương mại, đầu tư.
Hai hiệp định này được kỳ vọng trở thành cú huých đối với cả thương mại và đầu tư của Việt Nam, qua đó mở rộng cơ hội trở thành trung tâm sản xuất tại khu vực.
Mặc dù từ năm 2020, số lượng và giá trị các dự án FDI của EU vào Việt Nam có sự sụt giảm do Vương quốc Anh chính thức rút khỏi khối này. Nhưng kể từ năm 2021, số lượng các dự án FDI từ EU đã tăng trở lại, gần đạt được đỉnh cũ trong năm 2019. Lũy kế đến tháng 8/2022, nhóm EU27 có tổng cộng 2.378 dự án còn hiệu lực tại Việt Nam, với tổng giá trị 27,59 tỷ USD.
Trong đó, Hà Lan là đối tác đầu tư lớn nhất trong khối EU vào Việt Nam, đóng góp gần 50% tổng số vốn FDI của toàn khối tại Việt Nam; Pháp, Luxembourg, Đức, Đan Mạch và Bỉ đóng góp gần 42%.
Phân tích theo ngành và lĩnh vực, các doanh nghiệp EU đầu tư vào 18/21 ngành/lĩnh vực. Chủ yếu tập trung vào 3 ngành: Công nghiệp chế biến chế tạo, sản xuất phân phối điện và kinh doanh bất động sản.
Gần đây các doanh nghiệp EU có xu hướng quan tâm tới các ngành dịch vụ (như logistics, bưu chính viễn thông, tài chính, văn phòng cho thuê, bán lẻ), hay lĩnh vực năng lượng sạch, công nghiệp phụ trợ, chế biến thực phẩm, nông nghiệp công nghệ cao, dược phẩm… Đây được coi là dấu hiệu đáng mừng trong bức tranh thu hút FDI của Việt Nam từ EU.
TS. Nguyễn Thị Thanh Mai nhấn mạnh đến 6 cơ hội lớn Việt Nam có được nhờ EVFTA và EVIPA.
Thứ nhất, những cam kết thương mại trong EVFTA sẽ mang lại cho Việt Nam cơ hội tăng quy mô FDI từ các quốc gia nội khối và FDI nói chung do những cam kết về cắt giảm thuế quan.
Thứ hai, EVFTA sẽ giúp tăng quy mô FDI của EU vào Việt Nam do Hiệp định này giúp cho doanh nghiệp EU tiếp cận thị trường Việt Nam cũng như thị trường ASEAN rộng lớn, tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu
Thứ ba, việc sớm ký FTA với EU mang lại lợi thế cạnh tranh cho Việt Nam trong việc thu hút FDI của khối 27 thành viên.
Thứ tư, về môi trường đầu tư, việc thực hiện EVFTA cùng với những cam kết về mở cửa thị trường hàng hóa, dịch vụ, đầu tư và việc thực thi EVIPA sẽ tạo môi trường thuận lợi để Việt Nam đẩy mạnh thu hút đầu tư trong một số lĩnh vực mà EU có tiềm năng và thế mạnh.
Thứ năm, EVFTA có thể góp phần chuyển dịch cơ cấu đầu tư của EU vào Việt Nam.
Thứ sáu, việc thực thi hai hiệp định này sẽ là động lực và yêu cầu để Việt Nam cải cách thể chế và khung pháp lý, cải thiện môi trường kinh doanh, tạo điều kiện đầu tư thuận lợi và an toàn hơn cho các nhà đầu tư.
Thách thức trong thu hút FDI từ EU
Theo số liệu của Eurostat và Tổng cục Thống kê, tỷ trọng đầu tư EU vào Việt Nam còn khá khiêm tốn, thường chỉ dao động từ 2 - 5% so với tổng số vốn FDI mà EU phân bổ trên thế giới. Điều này cho thấy dòng FDI vào Việt Nam từ EU chưa tương xứng với tiềm năng mà các nhà đầu tư EU có thể mang lại.
TS. Trần Toàn Thắng, Trưởng ban Dự báo kinh tế và doanh nghiệp, Trung tâm Thông tin và Dự báo Kinh tế Xã hội Quốc gia chỉ ra cơ chế “chọn - cho” trong EVFTA vẫn tương đồng với cam kết tương tự của WTO, còn khá lạc hậu nên nói về độ mở của nguyên tắc hợp tác thì còn hạn chế.
Ngoài ra, Trưởng ban Dự báo kinh tế và doanh nghiệp cũng nhận định, cơ cấu đầu tư từ EU vào Việt Nam còn lạc hậu, bản thân EU không phải một thực thể hoàn toàn là các nước giàu có nên đầu tư của EU chưa hình thành một xu hướng mà chỉ xuất phát từ cơ chế.
Theo đó, chất lượng các dự án FDI của EU vào Việt Nam vẫn còn thấp trong tương quan so sánh với các nước cùng khu vực ASEAN. Lĩnh vực đầu tư của EU vào Việt Nam tương đối khác so với xu hướng đầu tư chung của khối này vào các nước ASEAN.
Bên cạnh đó, việc thực thi các FTA này còn dẫn tới những áp lực và chi phí liên quan tới cải cách thế chế, chính sách. Đồng thời có thể làm giảm dòng FDI theo chiều ngang vào Việt Nam, nhất là trong bối cảnh dòng FDI toàn cầu đang suy giảm và có tính chọn lọc hơn.
Quá trình chuyển đổi số cũng có thể thu hẹp dòng đầu tư của EU vào Việt Nam, đặc biệt là những doanh nghiệp đầu tư trong lĩnh vực có giá trị cao do sự thay đổi trong mục tiêu đầu tư của doanh nghiệp đa quốc gia.
Ngoài ra, do những hạn chế trong yếu tố nguồn lực, Việt Nam có nguy cơ trở thành điểm đến của các dự án FDI chất lượng thấp. Đồng thời, do quy định môi trường chưa chặt chẽ, năng lực quản lý và giám sát ảnh hưởng môi trường của dự án FDI còn yếu nên Việt Nam có thể trở thành địa điểm dịch chuyển của dòng FDI chất lượng thấp, gây ô nhiễm môi trường.
Để giải quyết những thách thức trên, các chuyên gia nhận định, Việt Nam cần tăng cường công tác nghiên cứu, tuyên truyền, phổ biến về EVFTA và EVIPA; cải cách thể chế; cải thiện chất lượng môi trường đầu tư - kinh doanh; hoàn thiện hơn các loại hình dịch vụ tư vấn và tạo thuận lợi đầu tư; đào tạo nguồn nhân lực và nâng cao chất lượng cơ sở hạ tầng.
Với hai Hiệp định EVFTA và EVIPA, Việt Nam không chỉ kỳ vọng đầu tư EU vào Việt Nam mà nên quan tâm đến cả đầu tư từ các nước khác vào Việt Nam để xuất khẩu sang EU.