“Tình yêu tôi như một tiếng chuông dài…”
Vốn sinh ra và lớn lên ở Phú Thọ với người cha là nhà soạn kịch Lưu Quang Thuận, chỉ từ sau khi hòa bình lập lại ở miền Bắc năm 1954, Lưu Quang Vũ mới cùng gia đình chuyển về sống tại Hà Nội. Thế nên sau này, trong các sáng tác của mình, hình ảnh miền quê trung du yên ả thuở ấu thơ ấy đã như một mảnh đất hiền hòa nuôi dưỡng cảm xúc cho ông. Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, Lưu Quang Vũ phục vụ trong quân chủng Phòng không không quân. Đến năm 1978, ông về làm biên tập viên tạp chí Sân khấu và bắt đầu viết kịch bản.
Cho đến bây giờ, có thể nói rằng, những tác phẩm kịch ông để lại, mà “Lời thề thứ 9” là kịch bản cuối cùng được dàn dựng trước khi ông đột ngột qua đời vào năm 1988, luôn khiến người ta phải trăn trở. Những năm 80 của thế kỷ trước, Lưu Quang Vũ là một hiện tượng hiếm có xưa nay trong nền sân khấu Việt Nam. Các đoàn kịch trên cả nước đều coi việc dựng vở của ông là một đảm bảo cho thành công.

Chân dung Lưu Quang Vũ. (Ký hoạ của Bùi Xuân Phái)
Những năm đó, nước nhà đang trong thời kỳ hậu chiến, biết bao nhiêu khó khăn về kinh tế, những biến chuyển sâu sắc về xã hội đang diễn ra. Đất nước còn ngổn ngang, bề bộn công việc phải làm sau đổ nát của chiến tranh, cuộc sống của người dân phải đối mặt với vô vàn cơ cực. Tất cả đang gồng mình lên, để xây dựng lại, để vững vàng mà bứt lên.
Là một nhà văn tài năng, hiện thực ấy đã tác động một cách sâu sắc vào tâm hồn Lưu Quang Vũ. Phải viết những gì đã và đang diễn ra, phải lên tiếng một cách trung thực trước mọi điều ấu trĩ bất cập, đấu tranh cho lẽ phải, cho sự công bằng. Đó chính là lời kêu gọi của trách nhiệm công dân cao cả trong người nghệ sĩ đã thôi thúc ông. Lưu Quang Vũ đã làm điều ấy với một tâm hồn hướng thiện mẫn tiệp, cùng những trải nghiệm bi tráng của chính đời mình trong khói lửa chiến tranh. Và ấy là nền tảng cơ bản tạo dựng tiếng vang cho từng lời thoại trong mỗi kịch bản của ông.
Vỏn vẹn khoảng 10 năm viết kịch, Lưu Quang Vũ để lại chừng 50 tác phẩm. Bắt đầu từ “Sống mãi tuổi 17” (Huy chương Vàng Hội diễn sân khấu toàn quốc năm 1980), các kịch bản của Lưu Quang Vũ liên tiếp gặt hái những giải thưởng cao.
Có thể kể ra đây nhiều cái tên mà mấy chục năm đã qua, hẳn không ít người còn nhớ với những cảm xúc nguyên vẹn: “Hồn Trương Ba-da hàng thịt”, “Tin ở hoa hồng”, “Bệnh sĩ”, “Tôi và chúng ta”, “Ông không phải là bố tôi”, hay “Nàng Sita”, “Lời thề thứ 9” … Và có thể nói, kịch đã làm nên một Lưu Quang Vũ trên diện rộng và lưu danh tên tuổi này như một “mốc son” trong nền sân khấu Việt Nam đương đại. Với những cống hiến xuất sắc và to lớn trong lĩnh vực này, Lưu Quang Vũ đã được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật đợt II (năm 2000).
Nếu trách nhiệm công dân của người nghệ sĩ với xã hội đã khiến Lưu Quang Vũ cầm bút viết kịch, bởi vì ngôn ngữ sân khấu có thể tiếp cận trực diện hơn với quần chúng, thì trách nhiệm của một trái tim yêu đời, yêu người thiết tha đến quặn thắt, đã làm bật ra những vần thơ. Và có lẽ chính trong mảng sáng tác này, ông đã được là chính mình.
Bản thân ông cũng hay tâm sự với bạn bè rằng, điều mà ông tâm huyết và say mê nhất, suốt cuộc đời, là thơ ca. Và ở đây, chính thơ đã khiến Lưu Quang Vũ “lặn” vào chiều sâu của tâm hồn độc giả, mặc dù chưa bao giờ ông có ý thức làm điều đó. Điều ấy phần nào lý giải cho việc đến tận giờ, những bài thơ, câu thơ của ông vẫn đang “nằm lòng” trong nhiều thế hệ bạn đọc.

Vợ chồng Lưu Quang Vũ - Xuân Quỳnh
Vốn sinh ra ở miền quê trung du Bắc bộ đẹp đẽ và thanh bình, lại sở hữu một tâm hồn dường như sinh ra để cho thơ ca, nên Lưu Quang Vũ cầm bút khá sớm. Năm 1968, khi mới tròn tuổi đôi mươi, ông chính thức xuất hiện trên thi đàn với phần thơ “Hương cây” trong tập thơ “Hương cây-Bếp lửa” in chung với Bằng Việt.
Ấy chính là thời kỳ chàng trai Lưu Quang Vũ đang tại ngũ. Người ta nhận thấy ở đây sự trong trẻo, hồn hậu, sự tin tưởng của tuổi trẻ trong cuộc chiến đấu của cả dân tộc. Đó cũng là âm hưởng chung của những người làm thơ trẻ lúc bấy giờ: “Các anh đi nhiều chốn quê hương. Đừng quên nơi này nhé. Ngày mai thắng giặc Mỹ. Các anh về quê em. Xoan xưa đã lớn, lá biếc cành chen. Đón mừng chiến sĩ. Bên sông rì rào bãi mía. Như muôn lời em gửi các anh…” (Gửi tới các anh-1965).
Những vần thơ không nệ về “làm dáng” cho bóng bẩy, đẹp đẽ, mà trôi chảy dạt dào một dòng cảm xúc. Đây cũng chính là phong cách viết của ông cho đến mãi sau này. Lưu Quang Vũ làm thơ như một sự hối thúc nội tâm cồn cào. Dường như ông viết trước hết là cho chính mình, để được giãi bày, được thỏa khao khát. Ông là một dạng thi sĩ bẩm sinh, dễ dàng viết ra những cảm xúc một cách chân thành mà tài hoa, chẳng cần bất cứ sự trợ giúp “kỹ thuật” nào.
Có một điều dễ nhận ra, rằng mọi dạng thức cảm xúc trong thơ Lưu Quang Vũ đều say đắm, nồng nàn. Dường như cái tạng người ấy không chịu được những gì nhợt nhạt, bàng bạc. Phải chăng, chính điều ấy đã tạo nên sức quyến rũ bền lâu, cũng như giá trị thẩm mỹ đặc biệt trong sáng tác của ông? Ngay cả những lúc bi phẫn, cùng quẫn nhất trong cuộc sống riêng tư, thì Lưu Quang Vũ cũng thiết tha hướng về những gì nhân bản, trung hậu, góp phần nuôi dưỡng nhân cách con người với tất cả sự trân trọng và cao quý. Đó là tư chất dễ thấy và nhất định phải có ở những nghệ sĩ chân chính.
Hãy nghe ông tâm sự: “Những bức tường dựng đứng quanh tôi. Có những lúc tôi xuôi tay đuối sức. Nhưng từ đáy nỗi buồn tôi thăm thẳm. Có cái gì như nhựa thắm trong cây. Có cái gì trắng xóa tựa mây bay. Là hoa gạo của lòng tôi chẳng tắt. Tôi đập tay lên bức tường lạnh ngắt. Dù tiếng tôi chỉ một người nghe. Tôi phải đốt lên một cái gì. Cho sáng rực giữa chênh vênh vực thẳm. Dẫu bao lần người làm tôi thất vọng. Tôi vẫn yêu người lắm lắm người ơi. Tình yêu tôi như một tiếng chuông dài. Làm run rẩy hoa hồng trên ngực nắng…” (Có những lúc-1972).
Còn có thể kể ra đây nhiều những bài thơ như thế, về tình yêu đất nước và lứa đôi hòa quyện, hay thốt lên những tâm tư sâu kín, đã được chép trong sổ tay, hoặc “găm” trong tâm trí bao bạn đọc: “Vườn trong phố”, “Mắt của trời xanh”, “Chiều chuyển gió”.
Và nhà phê bình văn học Vũ Quần Phương đã viết về ông thế này: “Tôi gọi Lưu Quang Vũ là nhà thơ Nhân dân, nhà thơ yêu nước. Danh hiệu này không dễ gọi cho nhiều nhà thơ”.
| Nhà thơ, nhà viết kịch lừng danh Lưu Quang Vũ (1948-1988) là một tên tuổi lớn trong nền văn học Việt Nam đương đại. Trong khoảng 10 năm sáng tác, ông để lại trên 50 vở kịch, mà nổi bật là các vở với những vấn đề sâu sắc của xã hội, luôn được khán giả đón nhận nồng nhiệt, đoạt nhiều giải thưởng lớn trong các hội diễn, liên hoan sân khấu toàn quốc. Có thể kể ra đây những vở như “Hồn Trương Ba-da hàng thịt”, “Tin ở hoa hồng”, “Cô gái đội mũ nồi xám”, “Lời thề thứ 9”… Bên cạnh đó, thơ Lưu Quang Vũ là tiếng nói của một tâm hồn nhạy cảm, một trái tim luôn đập cùng nhịp đập với thăng trầm của lịch sử dân tộc, qua những cảm nhận da diết và luôn nồng nàn với cuộc sống. Vì những đóng góp to lớn và xuất sắc cho nền sân khấu nước nhà, Lưu Quang Vũ đã được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học-nghệ thuật đợt II (năm 2000). |
Huy Anh
Tin liên quan
Tin khác
Cẩn trọng trước bẫy đơn hàng 0 đồng và chuyển khoản nhầm
Hành trình pháp lý cho tài sản số và tín chỉ carbon tại Việt Nam
Phá sập đường dây mua bán tài khoản ngân hàng để lừa đảo
Vi phạm hành chính trong kinh doanh bảo hiểm bị phạt tới 200 triệu đồng
Dự thảo Luật Kế toán sửa đổi: Tập trung tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
Luật Quản lý thuế sửa đổi: Tránh tăng thêm trách nhiệm và chi phí cho doanh nghiệp và cá nhân
NHNN Phú Yên tổ chức tuyên truyền phòng, chống lừa đảo trên không gian mạng
Đồng Nai: Tăng cường giải pháp ngăn ngừa tín dụng đen
Dự thảo Luật Công nghiệp công nghệ số: Cần định hình được vị thế và chiến lược riêng của Việt Nam


