Cải cách không đồng tốc
PCI 2017: Quảng Ninh lần đầu tiên dẫn đầu | |
Thu hút FDI: Sau thảm đỏ, cờ hoa là gì?! |
Tại báo cáo Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) 2018, diện mạo của khối DN tư nhân trong nước đã được phác thảo rõ nét hơn, với thực trạng đáng buồn là xu hướng teo tóp dần theo thời gian. Phát hiện này của nhóm nghiên cứu PCI không mới.
Tuy nhiên, nhóm đưa ra một nhận định đáng lưu ý, đó là tốc độ tự cải thiện của khối DN tư nhân dường như đang chậm hơn so với tốc độ cải thiện chất lượng điều hành của chính quyền địa phương, có thể làm phí những nỗ lực cải thiện môi trường kinh doanh thời gian qua.
Việt Nam đang thiếu hụt trầm trọng DN cỡ vừa |
Quy mô các DN tư nhân giảm dần
Theo nhóm nghiên cứu PCI, số lượng DN dân doanh đã tăng mạnh từ 15.000 DN trước năm 2000, lên tới 479.000 DN đến cuối năm 2016. Số vốn đầu tư và việc làm cũng tăng tương ứng. Các DN dân doanh hiện sử dụng 8,39 triệu lao động, chiếm khoảng 60% lực lượng lao động phi nông nghiệp của cả nước.
Tuy nhiên, mức đóng góp của khu vực tư nhân chính thức chưa bao giờ vượt quá 11% GDP trong suốt giai đoạn từ năm 2005-2016. Sau khi giảm từ mức đỉnh điểm ở năm 2009 (10,5%), tỷ lệ đóng góp vào GDP của khu vực tư nhân chính thức đã tăng lên trong 2 năm trở lại đây, song vẫn chưa trở lại mức đỉnh cao từng đạt được trước khi gia nhập WTO.
Nghiên cứu PCI cũng chỉ ra thực trạng là quy mô của các DN tư nhân đã giảm theo thời gian. Nếu tính theo giá trị năm cơ sở 1994, quy mô vốn đầu tư trung bình của mỗi DN dân doanh vào năm 2016 chỉ đạt khoảng 460 triệu đồng/DN, mức thấp nhất kể từ năm 1995. Trong khu vực kinh tế tư nhân chính thức, những DN mới thành lập đóng vai trò chính cho tăng vốn đầu tư, trong khi đó mức đóng góp của các DN đang hoạt động là không đáng kể.
Cùng với đó, vai trò tạo việc làm của khu vực tư nhân cũng chủ yếu là thông qua các DN thành lập mới. Cũng giống như đầu tư, quy mô lao động hiện nay ở mức thấp lịch sử với 17 lao động bình quân mỗi DN. Theo kết quả điều tra PCI năm nay, có trên 50% DN có ít hơn 10 lao động, 85% có dưới 50 lao động.
Số liệu điều tra PCI cũng chỉ ra rằng, chỉ có 11% DN tư nhân Việt Nam xuất khẩu trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua người mua hàng quốc tế; và chỉ 14% bán cho các DN FDI tại Việt Nam. Những con số này cho thấy khu vực tư nhân đang chủ yếu sản xuất cho thị trường trong nước, vốn được đánh giá là dễ tính hơn, và bỏ ngỏ thị trường quốc tế để các DN FDI khai thác.
TS. Edmund Malesky, đại học Duke, Hoa Kỳ, Trưởng nhóm nghiên cứu PCI phân tích, kết quả nghiên cứu này cho thấy, trong cùng giai đoạn, mặc dù những cải cách gỡ bỏ rào cản quy định hành chính đối với gia nhập thị trường đã cải thiện và góp phần làm gia tăng số lượng DN, nhưng những nỗ lực này lại hầu như không tác động mạnh đến tỷ trọng đóng góp của khu vực tư nhân trong tổng đầu tư hoặc sản lượng kinh tế.
“Nguyên nhân của vấn đề này là vào thời điểm lẽ ra các ngành sản xuất cần củng cố, và các DN Việt Nam cần phát triển vững mạnh để có thể cạnh tranh trên trường quốc tế, thì họ lại đang nhỏ đi cả về quy mô đầu tư và lao động”, TS. Edmund Malesky đặt vấn đề.
Nâng cao năng lực quản lý cho lãnh đạo DN
Phát hiện của nhóm nghiên cứu PCI đặt ra một thách thức để nâng cao năng lực cạnh tranh của Việt Nam. Theo đó, chỉ yêu cầu cải thiện chất lượng điều hành từ phía địa phương là chưa đủ, mà cần có cả nỗ lực từ phía các DN.
TS. Edmund Malesky chia sẻ một câu chuyện thực tế về việc chính quyền địa phương đã chuyển động để nâng cao năng lực của chính mình, song lại không được DN ghi nhận và tận dụng những cải cách này. Ông cho biết, trong quá trình đi các tỉnh trình bày tại các hội nghị phân tích PCI của các địa phương, nhóm nghiên cứu thường nhận được một phàn nàn chung của chính quyền tỉnh rằng đã đầu tư rất nhiều công sức để cải thiện môi trường kinh doanh, tạo thuận lợi cho khu vực tư nhân phát triển, nhưng lại không được các DN ghi nhận những nỗ lực này.
Ví dụ về Chỉ số thành phần số 3 về Tính minh bạch. Từ năm 2006, nhóm nghiên cứu PCI đã ghi nhận những cải thiện về chất lượng trang web của tỉnh. Tới năm 2013, các tỉnh trung vị đã gia tăng 8 điểm về công bố công khai các thông tin về ngân sách địa phương, các kế hoạch và văn bản pháp luật trên trang web của tỉnh.
Tuy nhiên, DN ở tỉnh trung vị khi trả lời điều tra PCI vẫn tiếp tục cho rằng, họ rất khó tiếp cận những tài liệu văn bản này. Họ phản ánh, việc này mất nhiều thời gian và đôi khi phải nhờ tới các mối quan hệ cá nhân mới tiếp cận được.
“Một số cán bộ chính quyền tỉnh băn khoăn về hiện tượng này và nhấn mạnh rằng, họ đã công khai và minh bạch hơn nhưng sao DN lại không hề ghi nhận những nỗ lực cải thiện này?”, ông đặt câu hỏi.
Nhóm nghiên cứu đã đưa ra một lý giải cho sự lệch pha giữa nỗ lực cải cách của tỉnh và sự ghi nhận của DN, theo đó có thể liên quan đến chất lượng quản lý của DN. Cụ thể, các nhà quản lý DN giỏi hơn có xu hướng chủ động tìm kiếm và biết khai thác nhiều thông tin hữu ích trên các trang web của tỉnh, phục vụ tốt hơn cho nhu cầu lập kế hoạch chiến lược của mình, chính vì vậy mà họ có thể đánh giá và chấm điểm cao hơn về chất lượng trang web.
Trong khi đó, các nhà quản lý yếu kém chưa thực sự nỗ lực chủ động tìm kiếm thông tin, thường có xu hướng đổ lỗi cho chính quyền về những khó khăn của họ và vì vậy, có xu hướng đánh giá và chấm điểm chất lượng điều hành của tỉnh thấp.
Với các kết quả ghi nhận được từ khảo sát, nhóm nghiên cứu PCI đưa ra nhận định, quản lý đóng vai trò rất lớn cho sự thành công của DN. Chỉ số chất lượng quản lý tăng 1 điểm sẽ làm tăng khả năng sinh lợi lên 8 điểm %, tăng mong muốn mở rộng hoạt động lên 14 điểm %, tăng 6,2 điểm % về tăng trưởng lao động trung bình hàng năm và tăng 4,2 điểm % về tăng trưởng đầu tư.
Các chuyên gia kinh tế đã liên tục chỉ ra vấn đề “thiếu vắng DN cỡ vừa”, sự thiếu hụt của các DN trong nước có quy mô đủ lớn và đủ khả năng để cạnh tranh trên thị trường toàn cầu. “Một gợi ý chính sách rõ ràng là Việt Nam cần tập trung đào tạo nâng cao năng lực quản lý cho các lãnh đạo DN. Đây là cách tiếp cận đầy tiềm năng để thúc đẩy các DN Việt Nam tham gia sâu hơn vào nền kinh tế toàn cầu”, TS. Edmund Malesky kết luận.