Chính sách tiền tệ thận trọng, linh hoạt, ưu tiên ổn định
Hiệu ứng tích cực từ chính sách tiền tệ | |
Chính sách tiền tệ phải thận trọng hơn | |
Bức tranh kinh tế 9 tháng: Ghi nhận thành công của chính sách tiền tệ |
Ông Ngô Đăng Khoa |
Ông đánh giá thế nào về đóng góp của chính sách tiền tệ (CSTT) trong ổn định KTVM, hỗ tăng trưởng kinh tế trong thời gian vừa qua?
Trong những năm gần đây, CSTT đóng góp quan trọng trong ổn định KTVM, góp phần giúp Chính phủ hoàn thành đa số các mục tiêu kinh tế đã đề ra.
Năm nay, mục tiêu kiểm soát lạm phát bình quân dưới 4% đã gặp nhiều thách thức vì một loạt các yếu tố bất lợi như: giá dầu và giá hàng hóa thế giới leo thang, căng thẳng thương mại toàn cầu, giá thực phẩm tăng, cùng với lộ trình tăng giá điều chỉnh giá một số hàng hóa, dịch vụ thiết yếu… Bên cạnh đó, biến động tỷ giá đồng USD trên thị trường thế giới đã có tác động đến tỷ giá trong nước cũng gây thêm một áp lực cho lạm phát.
Đứng trước thách thức đó, NHNN đã linh hoạt trong việc sử dụng các công cụ CSTT để kiềm chế lạm phát, ổn định KTVM. NHNN đã thông qua kênh tín phiếu và điều chỉnh giá mua - bán USD. Với động thái này NHNN đã một lúc đạt được hai mục đích: (1) duy trì thanh khoản VND ở mức ổn định, từ đó kéo theo sự ổn định của lãi suất và (2) không để VND trượt giá quá nhanh từ đó gây áp lực lên lạm phát.
Lạm phát trong tầm kiểm soát cũng là tiền đề quan trọng tạo điều kiện cho CSTT điều hành thị trường linh hoạt thông qua các công cụ điều tiết cung - cầu tiền trong hệ thống, từ đó góp phần giúp mặt bằng lãi suất, bao gồm cả lãi suất cho vay và lãi suất liên ngân hàng giảm mạnh từ năm 2012 và giữ ổn định trong năm 2017 cũng như bước qua 2018. Mặt bằng lãi suất thấp không chỉ tạo điều kiện giảm chi phí vốn cho DN mà đồng thời kéo theo mặt bằng lợi suất trái phiếu Chính phủ giảm mạnh, đồng nghĩa với việc giảm chi phí huy động từ kênh này.
Về tỷ giá, NHNN áp dụng cơ chế điều hành tỷ giá mới cùng một loạt các biện pháp điều hành khác đã góp phần cho tỷ giá trong nước thích nghi được với những biến động trên thị trường quốc tế cũng như thay đổi trong cung – cầu USD trong nước. Kết quả là dù chịu nhiều áp lực thời gian qua nhưng tỷ giá USD/VND chỉ mất giá khoảng 2,7% trong 9 tháng năm 2018 trong khi các đồng tiền khác trong khu vực suy yếu mạnh so với đồng bạc xanh. NHNN cũng rất linh hoạt trong việc phối hợp với các cơ quan điều hành áp dụng các công cụ CSTT khác như qua kênh tín phiếu… để bơm - hút thanh khoản VND qua đó hạn chế đầu cơ, giảm tình trạng USD hóa và hỗ trợ hoạt động xuất khẩu. Những thành tựu kể trên phản ánh sự đóng góp quan trọng từ điều hành CSTT cho ổn định KTVM thời gian qua.
Theo số liệu thống kê, các con số liên quan đến tăng trưởng tín dụng (TTTD), tổng phương tiện thanh toán… trong 9 tháng vừa qua đều thấp hơn so với cùng kỳ năm trước, nhưng tăng trưởng kinh tế vẫn tốt hơn. Ông nhìn nhận vấn đề này như thế nào?
TTTD 9 tháng năm 2018 có phần chậm hơn so với cùng kỳ năm trước nhưng tốc độ tăng trưởng GDP vẫn rất ấn tượng. Đây là một dấu hiệu tích cực cho nền kinh tế ít phụ thuộc vào tín dụng và điều đó sẽ tạo ra nhiều lợi ích vĩ mô.
Đặc biệt đáng lưu ý là tín dụng của nền kinh tế thời gian qua tuy thể hiện ít hơn về số lượng nhưng lại đã cải thiện về chất lượng. NHNN đã tập trung cho chất lượng tín dụng, phù hợp với các cân đối vĩ mô. Cụ thể là dòng vốn được ưu tiên đi vào sản xuất kinh doanh và các lĩnh vực ưu tiên, trong khi tín dụng vào các kênh đầu cơ mang tính rủi ro cao như bất động sản bị siết chặt.
Vậy ông thấy CSTT trong ứng phó với các biến động của thị trường tài chính bên ngoài thời gian vừa qua thế nào?
Thị trường tài chính chứng kiến nhiều biến động khó lường kể từ đầu năm tới nay, mà đa số đến từ những biến động quốc tế. Đặc biệt là việc Fed tăng lãi suất, đồng USD tăng giá và căng thẳng thương mại Mỹ - Trung khiến đồng Nhân dân tệ suy yếu mạnh. Những yếu tố này đã tạo ra những tác động lên VND trong nước.
Trong bối cảnh đó, CSTT đã phát huy vai trò của mình, với việc NHNN đã đưa ra một loạt các biện pháp như: sử dụng dự trữ ngoại hối bán USD ra hỗ trợ thị trường, niêm yết tỷ giá bán USD linh hoạt hơn, nới rộng khoảng cách lãi suất VND – USD để ngăn chặn đầu cơ và duy trì thanh khoản ổn định. Ngoài ra, CSTT tiếp tục được điều hành theo hướng tạo điều kiện cho lãi suất giảm, tạo điều kiện để duy trì ổn định mặt bằng lãi suất, cùng với việc phối hợp với các cơ quan điều hành triển khai chính sách để phát triển thị trường vốn nợ, qua đó tạo sự đa dạng về kênh huy động vốn cho DN.
Nhìn về tương lai, áp lực trong và ngoài nước đối với điều hành CSTT là gì?
Theo tôi có mấy vấn đề đáng chú ý hiện nay. Thứ nhất, do phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu nên Việt Nam dễ chịu tổn thương từ rủi ro thương mại từ cả tác động trực tiếp và gián tiếp.
Thứ hai, áp lực lạm phát vẫn còn trên diện rộng và trong đà tăng lên đối với nhiều nhóm hàng hóa trong nước, trong khi các yếu tố bên ngoài như giá dầu thế giới tiếp tục tăng cao, các sức ép với đồng nội tệ… Đây vẫn là các rủi ro chính làm tăng áp lực lạm phát.
Ngoài ra, lộ trình tăng lãi suất trong năm nay và tiếp tục sang năm sau của Fed sẽ tác động tới sự dịch chuyển dòng vốn toàn cầu vàtạo rủi ro thắt chặt CSTT hơn và có thể khiến dòng vốn đầu tư nước ngoài (cả trực tiếp và gián tiếp) vào Việt Nam chậm lại trong thời gian tới.
Với Việt Nam, mặc dù áp lực tăng lãi suất trong nước hiện nay chưa lớn nhưng rõ ràng những biến động vừa qua cũng có tác động ít nhiều.
Các khuyến nghị để hóa giải các thách thức này theo ông là gì?
VND yếu đi sẽ tạo lợi thế cạnh tranh cho xuất khẩu. Nhưng nếu trượt giá quá nhanh có thể tạo ra những hệ lụy khác như: Áp lực lên lạm phát, giảm triển vọng tái đầu tư của các DN FDI, cản trở quá trình cổ phần hóa DNNN, kìm hãm niềm tin NĐT và dòng vốn FDI. Do đó, CSTT trong thời gian tới cần thận trọng, tiếp tục áp dụng linh hoạt các công cụ và chính sách điều hành nhằm điều tiết thanh khoản thị trường một cách hợp lý. Đồng thời, mặt bằng lãi suất cần được duy trì ổn định vì đây là điều kiện tiên quyết cho hoạt động DN cũng như tăng trưởng và ổn định KTVM nói chung. Hiệu quả chính sách luôn có độ trễ, vì vậy nhà điều hành cần sớm nhận biết các thay đổi trên thị trường từ đó kịp thời đưa ra các giải pháp phù hợp, nhanh chóng thích nghi với biến động.
Xin trân trọng cảm ơn ông!