Không nên hoảng hốt mà phải tìm ra lối đi
Nâng cao chất lượng tín dụng chính sách vùng ĐBSCL | |
Nhu cầu vốn của doanh nghiệp dịch chuyển | |
Gia tăng chiều sâu cho tín dụng kết nối |
Dù phải đối mặt với nhiều khó khăn thách thức do biến đổi khí hậu, nước biển dâng và nguồn nước ở thượng nguồn sông Mê Kông đang làm thay đổi tập quán sản xuất, sinh kế của người dân ĐBSCL, song Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc vẫn lạc quan vào tương lai của vùng đất này: “Chúng ta không hoảng hốt mà cần tìm lối đi, cách làm tốt nhất, khoa học nhất nhằm mang lại cuộc sống tốt hơn cho gần 20 triệu người dân ĐBSCL vượt qua thách thức để có tương lai sáng lạn hơn”.
Với tinh thần đó, Thủ tướng đề nghị Hội nghị đưa ra được những giải pháp căn cơ, chiến lược, khả thi, có biện pháp tổng thể, đồng bộ cả về trước mắt và lâu dài, những cơ chế chính sách phù hợp, huy động mọi nguồn lực... để ĐBSCL phát triển bền vững thịnh vượng.
Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc phát biểu tại Diễn đàn |
Trình bày báo cáo tổng thể hội nghị chuyên đề về tổng quan, thách thức, cơ hội và giải pháp chuyển đổi mô hình phát triển cho ĐBSCL, Bộ trưởng Tài Nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà nhấn mạnh cần thay đổi nhận thức về ĐBSCL. Sự phát triển của ĐBSCL phải được nhìn ở một thể thống nhất có mối liên kết với các vùng kinh tế như TPHCM. Đặc biệt phải lấy tài nguyên nước làm yếu tố cốt lõi trong phát triển ĐBSCL trong giai đoạn mới để thích ứng với biến đổi khí hậu.
Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cũng cho rằng, biến đổi khí hậu không chỉ là thách thức mà còn là cơ hội để tổ chức, sắp xếp lại vùng. Trong đó phải coi nước là nguồn tài nguyên quan trọng nhất. Kinh tế biển là động lực phát triển. Nông nghiệp là nền kinh tế chủ đạo nhưng phải thay đổi tư duy phát triển. Cần đảm bảo phát triển hài hòa giữa ba trụ cột kinh tế - xã hội - môi trường. Ông đề nghị phải coi nước mặn, nước lợ… là nguồn tài nguyên để phát triển kinh tế biển của ĐBSCL. Bên cạnh đó, cần cân nhắc diện tích trồng lúa; hạn chế khai thác nước ngầm một cách tùy tiện; nâng cao nhận thức của người dân trong việc chuyển đổi mô hình sản xuất thích ứng với biến đổi khí hậu; sắp xếp lại các nhà máy nhiệt điện trong vùng;...
Đồng quan điểm nước là một nguồn tài nguyên quan trọng, PGS., TS. Lê Anh Tuấn thuộc Viện Nghiên cứu Biến đổi khí hậu – Đại học Cần Thơ cho biết: “Nước ngọt có hệ sinh thái của nước ngọt, nước mặn hay nước lợ cũng có hệ sinh thái của nó. Thậm chí, những vùng nước lợ đa dạng sinh học rất cao và rất nhiều sinh kế phụ thuộc vào nước lợ, là tài nguyên quý giá mà chúng ta chưa khai thác hết”.
Cùng với biến đổi khí hậu làm nước biển dâng thì tình trạng thủy điện ở thượng nguồn sông Mê Kông có nguy cơ làm thay đổi quy luật của dòng chảy tác động đến việc sử dụng nước tưới tiêu trong sản xuất nông nghiệp ĐBSCL. Theo TS. Anh Tuấn, đây là những ảnh hưởng đến từ bên ngoài nếu muốn tồn tại và phát triển vùng đồng bằng thì phải thay đổi.
“Hồi nào giờ có nước ngọt bây giờ nước mặn đi vào và trở thành nước lợ thì người nông dân đã biết chuyển đổi mùa khô nuôi tôm, mùa mưa trồng lúa… đó là sự sáng tạo của người dân. Thay đổi giống trong điều kiện canh tác mới như trồng lúa, cây ăn trái, trồng màu chịu được hạn, ngập. Rồi có biện pháp giữ lại nước mưa, giữ nước trong các vùng trũng…”, TS. Tuấn nói thêm. Để thay đổi căn bản và thích ứng với biến đổi khi hậu, nhà nghiên cứu ở Đại học Cần Thơ cho rằng còn phụ thuộc rất nhiều vào nguồn tài chính, nhân lực và chính sách của Chính phủ và các địa phương ĐBSCL.
Các đại biểu đề xuất Chính phủ cần tăng ngân sách chi đầu tư cho ĐBSCL lên trên 20% GDP, cùng với đó kết hợp với các nguồn lực đầu tư từ bên ngoài. Thủ tướng Chính phủ thông tin, tới đây Ngân hàng Thế giới (WB) sẽ cho vay khoảng 300 triệu USD, cộng với các nguồn lực khác khoảng 1 tỷ USD để đầu tư các công trình ứng phó với biến đổi khí hậu, chống ngập mặn trong vùng…
ĐBSCL có 13 tỉnh, thành phố với diện tích khoảng 3,9 triệu ha, chiếm 12,3% diện tích tự nhiên và 19% dân số của cả nước. Theo số liệu quan trắc khí tượng thủy văn ở ĐBSCL cập nhật đến năm 2014, trong giai đoạn từ năm 1958 đến năm 2014, nhiệt độ trung bình năm đã tăng 0,5 độ C, nhiệt độ trong mùa khô tăng nhiều hơn so với mùa mưa. Lượng mưa năm tăng khoảng 5-20% ở đa số khu vực. ĐBSCL hiện có 550 điểm sạt lở với tổng chiều dài trên 775 km, tốc độ xói lở bờ biển ngày càng tăng. Từ năm 2005 đến nay, tốc độ xói đã vượt tốc độ bồi, làm diện tích khu vực đồng bằng giảm khoảng 300 ha/năm. Nếu mực nước biển dâng 100 cm sẽ ảnh hưởng 38,9% diện tích đất của ĐBSCL, các tỉnh bị ảnh hưởng nhiều nhất là Hậu Giang (80,62%), Kiên Giang (76,9%). |