Nhà ngân hàng Lê Viết Lượng
Về nơi nguồn cội | |
Mô hình ngân hàng hai cấp: Một cuộc cách mạng | |
Về người chiến sĩ ngân tín |
Lê Viết Lượng (1900-1985), người chiến sĩ cộng sản kiên cường, bất khuất... từng bị thực dân Pháp bắt giam qua ba “hỏa ngục trần gian”, từ Lao Bảo, Kon Tum đến Buôn Mê Thuột. Ông trở thành người giữ kỷ lục bị cầm tù lâu nhất, đằng đẵng 15 năm (1930-1945), với 3 bản án khổ sai chung thân.
Được trả tự do năm 1945 giữa lúc cả nước sục sôi chuẩn bị tổng khởi nghĩa giành chính quyền, ông quyết định chưa về quê mà tìm đến cơ sở, tiếp tục hoạt động cách mạng.
Lê Viết Lượng được tổ chức phân công giữ chức Chủ tịch Uỷ ban Cách mạng tỉnh Nghệ An, lãnh đạo nhân dân chống phát xít Nhật, giành chính quyền tại địa phương. Sau đó, ông được cử làm Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến Hành chính Liên khu IV gồm 6 tỉnh: Thanh - Nghệ - Tĩnh - Bình - Trị - Thiên.
Đầu năm 1946, Lê Viết Lượng được nhân dân tín nhiệm bầu vào Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa khóa I. Mùa xuân năm 1951, ông ra chiến khu Việt Bắc dự Đại hội Đảng toàn quốc khóa II. Và chính thời gian này, ông vinh dự được Bác Hồ cho gọi lên, trực tiếp giao nhiệm vụ mới.
Theo hồi ký “Kỷ niệm sâu sắc” của Lê Viết Lượng: “Với giọng nói ấm áp, sang sảng của Người, Bác cho biết triển vọng tốt đẹp của cuộc kháng chiến; việc khôi phục, mở mang kinh tế sau chiến tranh; Bộ Chính trị chủ trương xây dựng Ngân hàng Quốc gia và Mậu dịch quốc doanh; giao cho chú Nguyễn Lương Bằng, trưởng ban tài chính của Đảng và chú, Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến hành chính Liên khu IV, 2 cán bộ tin cậy vào Ban lãnh đạo Ngân hàng Quốc gia. Tạm thời chú Bằng giữ chân trưởng, chú làm phó, nhưng Bác cho chú biết trước, chú Bằng giữ cương vị đó trong một thời gian ngắn thôi. Cho nên chú sẽ là người chịu trách nhiệm chính trước Bộ Chính trị và Trung ương. Vạn sự khởi đầu nan. Dĩ dân vi bản, vạn sự tất thành. Chú phải tìm gặp chú Bằng trao đổi gấp việc tổ chức và tiến hành ngay”.
Nhận nhiệm vụ mới, ông lo nghĩ nhiều. Song, với tài năng, đức độ của một chiến sĩ cộng sản dạn dày kinh nghiệm, ông đã cùng Nguyễn Lương Bằng, nhà cách mạng nổi tiếng với biệt danh “Ngôi sao đỏ”, “Người anh cả”, phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ được Đảng và Bác Hồ tin tưởng giao phó. Và hai ông là những người vinh dự đặt viên gạch đầu tiên xây dựng Ngân hàng Quốc gia Việt Nam.
Là người chịu trách nhiệm chính liên tục 13 năm, từ 1951 đến 1964, Lê Viết Lượng đã tự ý thức được mọi khó khăn, gian khó phải đương đầu trước một lĩnh vực phức tạp mà mình chưa từng được kinh qua học hành, đào tạo. Và ông luôn đinh ninh lời Bác “dĩ dân vi bản, vạn sự tất thành”, vững tin, quyết tìm mọi cách thực thi nhiệm vụ được giao, nhất định không phụ lòng tin của Bác Hồ, của Đảng.
Lê Viết Lượng hình dung và xác định, đây là mặt trận không kém phần gay go, gian khổ và có thể phải trả bằng máu, với mục tiêu cuối cùng là xây dựng một nền tài chính, tiền tệ tự chủ cho một chính thể quốc gia độc lập. Người làm Ngân hàng đòi hỏi phải có tri thức, chứ không thể chỉ có nhiệt tình. Nên theo ông, muốn đảm đương tốt nhiệm vụ, trước hết phải tạo dựng bằng được đội ngũ những con người có khả năng tương xứng, đúng như Bác đã dạy: “Cán bộ quyết định hết thảy”.
Lê Viết Lượng hết sức tâm đắc điều đó và đã ưu tiên, bằng mọi cách đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ Ngân hàng. Ông biết rằng số đông cán bộ Ngân hàng bấy giờ đều xuất thân từ thành phần công-nông, sự hiểu biết nghề nghiệp còn có nhiều hạn chế. Nếu “lấp đầy” được khoảng hẫng hụt này thì đây sẽ là đội quân “vừa hồng vừa chuyên”, ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ đòi hỏi. Nhà lãnh đạo Ngân hàng Lê Viết Lượng lúc này thường nhấn mạnh 2 chữ Tâm và Trí trong chỉ đạo, điều hành và huấn luyện đội ngũ cán bộ. Có đức (Tâm) thì dân tin, có tài (Trí) thì dân phục.
Nền tài chính đầu tiên của ta hình thành từ lòng dân mà ra, và cái “kim bản vị” của tờ “giấy bạc Cụ Hồ” chính là một giá trị “phi vật thể” vô giá. Đó là niềm tin của dân đối với Chính phủ Cụ Hồ.
Sau thời gian “khởi đầu nan”, Lê Viết Lượng cùng tập thể Ban lãnh đạo và đội ngũ cán bộ, nhân viên Ngân hàng quyết tâm phấn đấu để Đồng tiền Ngân hàng ra đời, tiếp tục xuất sắc sứ mệnh Đồng tiền tài chính.
Hồ Chủ tịch đánh giá: “Công việc thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam, việc ra tờ bạc Ngân hàng là một thắng lợi lớn”. Từ đây hệ thống tổ chức Ngân hàng được thiết lập xuyên suốt từ Bắc chí Nam cùng với Đồng tiền Ngân hàng lưu hành rộng khắp các vùng, miền... thể hiện rõ chủ trương hết sức sáng tạo trong đấu tranh tiền tệ với địch; đáp ứng nhu cầu sản xuất, sinh hoạt của nhân dân; phục vụ kịp thời yêu cầu chi tiêu cho quân sự.
Có thể coi việc phát hành Đồng tiền Ngân hàng thay Đồng tiền Tài chính là cuộc cải cách tiền tệ lần thứ nhất, chuyển từ chế độ phát hành tiền quốc khố phục vụ chi tiêu ngân sách quốc gia sang chế độ phát hành tiền thông qua tín dụng, thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hóa.
Và sau đó, là một bước ngoặt trong lịch sử Đồng tiền Việt Nam, đó là cuộc thu đổi tiền đầu năm 1959, thực chất là cuộc cải cách tiền tệ lần thứ 2. Dưới sự lãnh đạo của Trung ương, Lê Viết Lượng, người đứng đầu ngành Ngân hàng đã chỉ đạo chiến dịch cải cách tiền tệ này theo phương châm “Nhanh, gọn, tốt, bí mật”, có thể nói cuộc cải cách tiền tệ này đã giành thắng lợi trọn vẹn, ngoạn mục.
Cùng với đó, Lê Viết Lượng còn chỉ đạo nhanh chóng kiện toàn hệ thống quản lý Ngân hàng từ Trung ương đến các tỉnh, huyện, cụ thể hóa chủ trương, chính sách thành chế độ nghiệp vụ cụ thể, thích ứng mọi diễn biến của tình hình. Ông là một tấm gương vượt trội với tinh thần dám làm, dám chịu trách nhiệm. Qua thực tiễn, Lê Viết Lượng luôn tâm niệm phải có một chính sách đào tạo liên tục, thu hút nhân tài để có một đội ngũ làm Ngân hàng giỏi. Và mặt khác, cần phải khẩn trương xây dựng một hệ thống cơ sở hạ tầng kho tàng, trụ sở vững vàng, kiên cố.
Trên một bình diện khác, trong một cuộc đời phục vụ đất nước, phục vụ nhân dân của mình, Lê Viết Lượng luôn là một nhân cách đẹp. Ông là mẫu người đầy dũng khí, dám nghĩ, dám quyết, dám làm và dám chịu trách nhiệm. |
Ngay từ năm 1954, khi hòa bình vừa mới lập lại ở miền Bắc, Lê Viết Lượng đã nhanh chóng tổ chức chiêu sinh, tuyển chọn học sinh có học lực phổ thông từ khu IV, khu III và các tỉnh khác lần lượt vào ngành Ngân hàng, cấp tốc đào tạo, huấn luyện qua các lớp sơ cấp nghiệp vụ Ngân hàng, kịp thời bổ sung về các Ngân hàng địa phương.
Đây chính là nguồn nhân lực quý báu, cốt cán cho sự phát triển của ngành sau này. Những cơ sở đào tạo Xuân La, Cự Đà (Hà Nội), Cổ Mễ (Bắc Ninh), Tầng hầm (Nhà băng Đông Dương), Hồng Bàng (Hải Phòng)... là các địa danh đã đi vào lịch sử của ngành Ngân hàng qua nhiều thế hệ.
Không khí thi đua học tập trong ngành Ngân hàng lúc bấy giờ đã trở thành phong trào có tiếng vang lớn. Bộ giáo dục từng yêu cầu ngành Ngân hàng tổ chức báo cáo điển hình để phổ biến, đúc rút kinh nghiệm chung về đào tạo cán bộ.
Lê Viết Lượng đặc biệt quan tâm đến học sinh con em miền Nam tập kết ra Bắc, đào tạo để chuẩn bị xây dựng ngành Ngân hàng sau ngày nước nhà thống nhất. Cũng như với nước bạn Lào anh em, Lê Viết Lượng hết lòng quan tâm chăm sóc, nuôi nấng, đào tạo lưu học sinh Lào từ độ tuổi còn niên thiếu. Ngày nay, tất cả đã trở thành những cán bộ cốt cán của ngành Ngân hàng Lào, giữ những cương vị cao cấp.
Năm 1957, Lê Viết Lượng xuống thăm một lớp huấn luyện nghiệp vụ Ngân hàng trong khu lăng Hoàng Cao Khải ở Ấp Thái Hà, ngoại thành Hà Nội, và ông quyết định xin phép chính phủ cho lập một dự án táo bạo, quyết tâm xây dựng một khu trường đào tạo cán bộ Trung cao cấp nghiệp vụ Ngân hàng với phương châm tự lực cánh sinh, dựa hẳn vào sức người, sức của bản thân, tự thiết kế, thi công.
Ước mơ thành sự thật, năm 1961, ngành đã cơ bản hoàn thành xây dựng một khu trường rộng gần 6 ha, đủ các các giảng đường, đảm bảo nhu cầu sinh hoạt, giảng dạy, học tập, vui chơi cho hàng ngàn học sinh và cho hàng trăm giáo viên chung sống. Tháng 9/1961, Chính phủ chính thức ra quyết định thành lập Trường Trung, Cao cấp nghiệp vụ Ngân hàng, tiền thân của Học viện Ngân hàng ngày nay.
Cùng với đó, năm 1959, Lê Viết Lượng đề ra chủ trương “Cải tiến công tác Ngân hàng”, thực chất là thay đổi mô hình tổ chức và hoạt động, tách hệ thống Ngân hàng ra thành “Chi nhánh Trung tâm” chuyên lo chỉ đạo, quản lý, tổng hợp tình hình; còn “Chi nhánh nghiệp vụ” chuyên lo giao dịch với khách hàng. Đây là manh nha của tư duy đổi mới mô hình Ngân hàng thành 2 cấp, cấp “quản lý” và cấp “kinh doanh”.
Bên cạnh đó, nhận rõ tầm quan trọng của công tác thông tin, báo chí, là công cụ, phương tiện hữu hiệu truyền tải chủ trương, đường lối, chính sách, bồi dưỡng, nâng cao hiểu biết cho người dân, năm 1952, Lê Viết Lượng và Ban lãnh đạo Ngân hàng Quốc gia đã tổ chức phòng Tuyên truyền Ngân hàng, xuất bản tờ Tập san chuyên ngành, sau đổi thành tờ Đồng tiền Việt Nam, tờ Tập san Ngân hàng, nay là Tạp chí Ngân hàng - Cơ quan lý luận và nghiệp vụ của ngành.
Trên một bình diện khác, trong một cuộc đời phục vụ đất nước, phục vụ nhân dân của mình, Lê Viết Lượng luôn là một nhân cách đẹp. Ông là mẫu người đầy dũng khí, dám nghĩ, dám quyết, dám làm và dám chịu trách nhiệm.
Và với truyền thống đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, “Ăn quả nhớ người trồng cây”, năm 2001, ngành Ngân hàng đã long trọng tiến hành lễ dựng tượng người cách mạng-nhà ngân hàng Lê Viết Lượng trong khuôn viên của Học viện Ngân hàng như một tri ân công đức của ông.