Nới đầu tư R&D, vốn ngoại có giảm chất?
Từ đầu tháng 7 tới, Luật Đầu tư sửa đổi (2014) sẽ bắt đầu có hiệu lực. Trong số các điều khoản được sửa đổi của văn bản luật này, điều khoản mà các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các DN hoạt động trong lĩnh vực công nghệ cao trông đợi nhất chính là những quy định giảm nhẹ về tỷ lệ đầu tư cho công tác nghiên cứu và phát triển (Research & Development - R&D).
Trong đó tại Điều 75 của Luật Đầu tư sửa đổi, quy định các DN hoạt động trong lĩnh vực công nghệ cao chỉ phải đảm bảo mức đầu tư cho R&D với tỷ lệ từ 0,5-1% tổng doanh thu thuần hàng năm, tùy theo quy mô của công ty. Ngoài ra, số lượng lao động có trình độ chuyên môn từ đại học trở lên trực tiếp thực hiện hoạt động R&D cũng chỉ cần đảm bảo tỷ lệ từ 2,5-5% trên tổng số lao động của DN.
Ảnh minh họa |
Như vậy, nếu so sánh với các quy định tại Luật Công nghệ cao trước đây thì các tỷ lệ liên quan đến R&D mà các DN công nghệ cao phải đáp ứng được giảm đi một nửa. Vì trước đây, không phân biệt DN lớn hay nhỏ, để được xem là DN công nghệ cao tất cả các đơn vị này đều phải đảm bảo tỷ lệ đầu tư cho R&D ở mức 1% tổng doanh thu và có 5% tổng lao động cho hoạt động R&D.
Theo các phân tích của giới chuyên môn, việc nới các chỉ tiêu đầu tư cho hoạt động R&D của các DN công nghệ cao trong bối cảnh hiện nay tại Việt Nam là hợp lý, vì những quy định trước đây các tỷ lệ này bị cộng đồng DN cho là quá cao và khó thực hiện. Đơn cử như trường hợp của Tập đoàn Samsung. Năm 2014, tổng doanh thu của DN này là 26,3 tỷ USD và tổng số lượng lao động là 70.000 người. Nếu phải đầu tư cho R&D với tỷ lệ 1% doanh thu và sử dụng 5% tổng lao động thì tập đoàn này sẽ phải “móc hầu bao” khoảng 263 triệu USD và sử dụng 3.500 người cho hoạt động R&D. Cả hai con số này đều quá lớn và không thể nào “tiêu” hết trong vòng một năm.
Tuy nhiên, nói cho công bằng. Từ trước đến nay hoạt động đầu tư vào lĩnh vực công nghệ cao vẫn được xem là mảnh đất quá nhiều ưu đãi. Cũng trường hợp của Tập đoàn Samsung, từ khi bước chân sang thị trường Việt Nam đến nay, DN này được hưởng gần như trọn vẹn các ưu đãi về thuế. Chẳng hạn Samsung chỉ phải nộp thuế thu nhập DN 10% trong suốt thời gian thực hiện dự án, được miễn thuế thu nhập DN trong 4 năm và giảm 50% số thuế phải nộp trong 9 năm tiếp theo... Ngoài ra, ngay cả trong hoạt động R&D, ở các dự án trọng điểm, tập đoàn này cũng đã nhận được sự điều chỉnh về tỷ lệ đầu tư.
Như dự án Samsung Electrics Việt Nam (SEV), DN này được áp dụng cách tính tỷ lệ lao động làm việc trong lĩnh vực R&D căn cứ trên cơ sở tính số lao động không sản xuất (tức chỉ bằng 1/3 tổng số lao động của DN do mỗi ngày chia làm 3 ca). Còn về chi phí cho hoạt động R&D đối với phần mở rộng, mặc dù vẫn phải đảm bảo mức 1% doanh thu nhưng được phép tính toàn bộ chi phí các hình thức đào tạo (trong và ngoài nước); chi phí hỗ trợ đào tạo; chi phí tài trợ các tổ chức khoa học và công nghệ trong nước.
Từ trước đến nay, hoạt động đầu tư vào R&D luôn là hoạt động mà các nước nhận nguồn vốn FDI trông đợi từ các nhà đầu tư nước ngoài bởi nó sẽ là nền tảng để gia tăng giá trị thực tiễn của chính sách thu hút vốn ngoại nhằm đổi mới, chuyển giao công nghệ, gia tăng năng suất, chất lượng và thương hiệu sản phẩm Việt Nam.
Những năm gần đây, hoạt động đầu tư cho R&D của các tập đoàn kinh tế Nhà nước và các DN tư nhân lớn tại Việt Nam cũng bắt đầu khởi sắc. Nhiều DN đã thành lập các bộ phận R&D như Viện Nghiên cứu Dầu khí, Viện Nghiên cứu cao su, Viện Nghiên cứu và Phát triển Viettel, Nghiên cứu công nghệ FPT…
Nhờ hoạt động R&D, từ chỗ chỉ cung cấp các thiết bị viễn thông và các sản phẩm công nghệ thông tin đến nay, Viettel đã tạo ra danh mục sản phẩm “Made by Viettel” cho phép gần bao phủ hầu hết lĩnh vực điều hành, sản xuất của tập đoàn. CTCP Chế tạo giàn khoan dầu khí đã nghiên cứu và chế tạo thành công giàn khoan tự nâng 90m nước đầu tiên “Made in Vietnam”. CTCP Thiên Long mỗi năm đưa ra thị trường hàng chục sản phẩm mới, các sản phẩm của DN này đã có thể thay thế sản phẩm của Thái Lan, Hàn Quốc…
Chính vì vậy, việc sửa đổi theo hướng nới rộng các quy định về tỷ lệ R&D ở một khía cạnh nào đó có thể sẽ khiến cho nguồn vốn mà các DN đầu tư vào R&D giảm đi. Điều này sẽ dẫn tới hệ lụy kéo dài thời gian “gia công” của nền kinh tế. Chưa kể rằng, nếu đánh đồng các tỷ lệ bắt buộc này áp dụng chung cho cả khối DN FDI và khối DN trong nước thì sẽ tạo ra một sân chơi không bình đẳng vì bản thân các DN FDI khi vào đầu tư tại Việt Nam đã được hưởng quá nhiều ưu đãi. Đáng ra với những ưu đãi này các DN FDI ngành công nghệ cao cần phải tiên phong đầu tư lớn cho hoạt động R&D và sẵn sàng chịu một tỷ lệ bắt buộc cao hơn so với các DN cùng ngành ở thị trường nội địa.