Sự cần thiết trao đổi thông tin tín dụng
Tại buổi tọa đàm, các chuyên gia, các nhà quản lý cho rằng, thay vì chỉ có số ít khách hàng được vay vốn theo cách sử dụng “thông tin tín dụng truyền thống” (chủ yếu do các TCTD cung cấp), việc mở rộng thông tin tín dụng ngoài ngành như: điện, nước, điện thoại… sẽ giúp mở rộng đối tượng tiếp cận tín dụng ngân hàng hơn, đồng thời cũng giúp các ngân hàng có thể đánh giá rủi ro và năng lực tài chính của khách hàng vay tốt hơn.
Các chuyên gia cũng cho rằng, việc bổ sung thêm các thông tin tín dụng ngoài ngành sẽ là yếu tố tích cực cho việc nâng cao chất lượng tín dụng, đồng thời cảnh báo sớm về các rủi ro cho các ngân hàng.
Theo ông Đỗ Hoàng Phong, Tổng giám đốc CIC, cơ sở dữ liệu về thông tin tín dụng của CIC hiện nay chủ yếu dựa trên dữ liệu của các TCTD. Điều này có nghĩa là, khi khách hàng có quan hệ tín dụng với các TCTD thì mới có thông tin xếp hạng, chấm điểm tại CIC. Các TCTD cũng dựa trên xếp hạng, chấm điểm đó để xem xét cho khách hàng vay vốn.
Trong khi đó theo số liệu thống kê được ông Lê Anh Tuấn, Trưởng phòng Phòng Nghiên cứu phát triển của CIC công bố tại Tọa đàm, tính đến năm 2015, dân số Việt Nam ở mức trên 93,4 triệu người. Trong đó, có hơn 67,1 triệu người trưởng thành trong độ tuổi từ 15-69 tuổi. Tuy nhiên, trong số hơn 67,1 triệu đó có tới 41,7 triệu người chưa từng có quan hệ tín dụng với ngân hàng, chiếm tới 44,9% tổng dân số Việt Nam và chiếm tới 62% số người trưởng thành.
Điều đó cho thấy, tỷ lệ người không tiếp cận được tín dụng tại Việt Nam vẫn ở mức rất cao, đặc biệt nếu so với các thị trường phát triển. Như số liệu ông Hùng Hoàng, Chuyên gia về Báo cáo tín dụng, Chương trình phát triển thị trường và ngành tài chính của IFC/WBG cũng cho biết, tổng dân số của Mỹ hiện nay khoảng 360 triệu người thì chỉ có 54 triệu người không hoặc chưa tiếp cận được khoản vay của các ngân hàng.
Như vậy, một vấn đề đặt ra là nên có cách tiếp cận khả thi nào để những người chưa từng có quan hệ tín dụng có thể tiếp cận được tín dụng? Theo ông Hùng Hoàng, tiếp cận theo thông tin tín dụng ngoài ngành (thông tin đến từ các dịch vụ như điện, nước, viễn thông…) nên là một lựa chọn.
Bởi theo chuyên gia này, dù ngành nghề khác nhau thì các DN đều có chung đối tượng khách hàng. Bởi thế, các dữ liệu thông tin về thanh toán các hàng hóa, dịch vụ thiết yếu như hóa đơn điện thoại, truyền hình cáp, điện nước… sẽ là nguồn thông tin đầu vào quan trọng giúp các TCTD đánh giá được các khách hàng vay dù họ chưa từng có quan hệ tín dụng.
Theo đó, các khách hàng vay dù chưa có lịch sử quan hệ tín dụng nhưng có lịch sử thanh toán các loại hóa đơn trên tốt sẽ dễ dàng tiếp cận tín dụng hơn và ngược lại. Như vậy, khi bổ sung thông tin ngoài ngành cũng sẽ giúp nâng cao ý thức khách hàng trong việc thanh toán đúng hạn, đầy đủ hóa đơn điện, nước, viễn thông… để có thể dễ dàng tiếp cận tín dụng hơn về sau này.
Đáng chú ý qua phân tích, các chuyên gia và đại diện một số ngành ở Việt Nam cho rằng, lĩnh vực viễn thông là lĩnh vực có thể tập trung kết nối và khai thác tốt nhất thông tin tín dụng ngoài ngành.
Nhìn ở góc độ vĩ mô, ông Lê Anh Tuấn cho rằng, việc chia sẻ thông tin ngoài ngành sẽ góp phần giúp duy trì, thậm chí thăng hạng Chỉ số tiếp cận tín dụng và Môi trường kinh doanh của Việt Nam theo đánh giá Doing Business hàng năm của WB.
Hiện chỉ số này của Việt Nam đã tăng từ mức 36/180 quốc gia năm 2015 lên mức 28/180 quốc gia năm 2016. Tuy nhiên, để duy trì hay thậm chí tiếp tục tăng lên trong nhóm 30 quốc gia dẫn đầu như hiện nay thì các nỗ lực cần tiếp tục, bởi các nước khác cũng đang đẩy mạnh cải thiện chỉ số này.