Tạo động lực phát triển nông nghiệp bền vững
Mở đường vốn cho nông sản sạch | |
Trợ lực cho kinh tế xanh phát triển bền vững | |
Agribank tiếp sức ngư dân vươn khơi bám biển |
Trụ đỡ cho tam nông
Mặc dù chỉ chiếm tỷ trọng khoảng 17,4% trong GDP, nhưng ngành nông nghiệp thu hút trên 50% lực lượng lao động cả nước. Nông nghiệp còn góp phần đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và đóng góp lớn vào kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam (kim ngạch xuất khẩu nông - lâm - thủy sản năm 2015 đạt 30,45 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 18,8% tổng kim ngạch xuất khẩu).
Có được kết quả trên là nhờ những chính sách kịp thời của Chính phủ và NHNN đã góp phần khơi thông nguồn vốn tín dụng vào lĩnh vực nông nghiệp nông thôn (NNNT). Trong thành công trên có đóng góp quan trọng không nhỏ của Agribank với vai trò là NH chủ lực, đầu tàu trong thực thi các chủ trương, chính sách tiền tệ tín dụng của Chính phủ và NHNN, đặc biệt là cung ứng vốn cho lĩnh vực NNNT, nông dân.
Sản xuất nông nghiệp Việt Nam hiện nay chủ yếu vẫn manh mún, quy mô sản xuất nhỏ |
Có thể nói, trong suốt thời gian qua Agribank đã chủ động triển khai nhiều giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả huy động vốn, từ đó có nguồn vốn để đầu tư cho vay phát triển kinh tế. Năm 2016, nhiều chương trình tín dụng quan trọng được Agribank triển khai và một nguồn vốn lớn đã chảy vào khu vực tam nông.
Có thể kể đến chương trình cho vay theo Nghị định 55/2015/NĐ-CP của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển NNNT, đã đạt trên 277.000 tỷ đồng, tăng 22% so với 2015 và tăng 52,8% so cùng kỳ năm trước; cho vay hộ sản xuất và cá nhân thông qua tổ liên kết có dư nợ đạt trên 58.000 tỷ đồng, với trên 44.000 tổ vay vốn và trên 1 triệu thành viên; cho vay xây dựng nông thôn mới với dư nợ đạt trên 271.000 tỷ đồng, tăng 16,2% so với cùng kỳ năm ngoái; cho vay theo Nghị định 67/2014/NĐ-CP của Chính phủ về một số chính sách phát triển thủy sản với dư nợ 1.270 tỷ đồng…
Một nguồn vốn lớn đã được đầu tư phát triển mô hình mẫu trong sản xuất nông nghiệp theo chuỗi liên kết, ứng dụng công nghệ cao tại các địa phương nhằm gia tăng giá trị chuỗi, thúc đẩy tái cơ cấu ngành nông nghiệp như: mô hình đầu tư chuỗi liên kết sản xuất và tiêu thụ rau màu Antesco của Công ty cổ phần Rau quả thực phẩm An Giang; mô hình liên kết chuỗi trong sản xuất và xuất khẩu cá tra của nhóm công ty Hùng Cá tỉnh Đồng Tháp; mô hình liên kết, ứng dụng công nghệ cao trong đầu tư dây chuyền sản xuất nước chanh dây cô đặc và đầu tư nhà kính trồng hoa lan hồ điệp của công ty TNHH thương mại - dịch vụ Trường Hoàng tỉnh Lâm Đồng...
Để đồng vốn tới được người dân khắp mọi miền đất nước, Agribank đã triển khai cho vay thông qua tổ vay vốn tại khắp các thôn, bản, vùng, miền đất nước, trở thành kênh dẫn vốn và quản lý vốn hiệu quả. Đến nay, Agribank đã phối hợp với Hội Nông dân, Hội Liên hiệp Phụ nữ các cấp thành lập 37.000 tổ vay vốn với gần 1 triệu hội viên, tổng dư nợ cho vay thông qua các tổ vay vốn quản lý là 44.000 tỷ đồng. Hiệu quả sử dụng đồng vốn qua các tổ vay vốn thể hiện rõ khi đã giúp hội viên tăng thu nhập, phát triển sản xuất, tỷ lệ nợ xấu thấp (chỉ chiếm 0,2%)...
Gỡ vướng để dòng vốn tín dụng chảy mạnh
Mặc dù đạt được nhiều thành tựu, nhưng các chuyên gia cũng chỉ rõ những bất cập trong sản xuất nông nghiệp Việt Nam hiện nay. Đó là tính manh mún, quy mô sản xuất nhỏ; quy định về hạn điền trong nông nghiệp thấp.
Bên cạnh đó, vấn đề quy hoạch, kế hoạch và dự báo cung cầu đối với sản phẩm nông nghiệp trên thị trường còn nhiều bất cập; tình trạng “được mùa mất giá, được giá mất mùa” vẫn thường xuyên xảy ra, ảnh hưởng đến thu nhập của người nông dân và các DN hoạt động trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp. Thêm nữa, đầu tư vốn tín dụng trong lĩnh vực NNNT luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro do thiên tai, dịch bệnh, thị trường sản phẩm không ổn định trong khi vẫn thiếu các công cụ phòng ngừa và hạn chế rủi ro; hoạt động bảo hiểm nông nghiệp tuy đã được triển khai nhưng kết quả vẫn còn thấp.
Năng lực sản xuất, khả năng tài chính hạn chế cũng là yếu tố ảnh hưởng lớn đến khả năng tiếp cận nguồn vốn tín dụng của các hộ nông dân, hợp tác xã và DN. Khu vực kinh tế hợp tác, mà nòng cốt là các HTX, hầu hết có quy mô hoạt động nhỏ, vốn điều lệ thấp, trình độ nhân lực, tài chính, quản trị, điều hành còn hạn chế và thiếu phương án sản xuất kinh doanh khả thi. Tính liên kết trong sản xuất nông nghiệp còn thiếu chặt chẽ, chưa có nhiều mô hình sản xuất liên kết, ứng dụng công nghệ cao có hiệu quả…
Việc đầu tư các dự án sản xuất ứng dụng công nghệ cao dù đang được khuyến khích nhưng tỷ lệ cho vay còn thấp do chưa có nhiều mô hình phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Hiện nay, số lượng các DN nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao được được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cấp giấy chứng nhận mới chỉ dừng ở con số hơn 20 DN.
Ý thức rõ nhiệm vụ trọng tâm là gắn bó và đồng hành với tam nông, lãnh đạo Agribank xác định, thời gian tới cần phải có những giải pháp tháo gỡ khó khăn trong đầu tư vào lĩnh vực NNNT để có thể đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu nông nghiệp, góp phần quan trọng trong tăng trưởng kinh tế cả về chất và lượng. Phó Tổng giám đốc Agribank Phạm Toàn Vượng đề xuất 6 giải pháp cụ thể để thúc đẩy phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững. Một là, chính sách cần bám sát và phù hợp với thực tiễn.
Khi xây dựng chính sách cần tạo điều kiện để các ngành có liên quan, các đối tượng thụ hưởng chính sách tham gia góp ý rộng rãi, không để hiện tượng chính sách ban hành không thực hiện được, nhiều vướng mắc và tăng trưởng chậm (như: tái canh cây cà phê), hay thực hiện với hiệu quả không cao (như: đánh bắt xa bờ, cho vay đóng tàu, trang bị máy nông nghiệp..).
Hai là, tách bạch rõ ràng giữa tín dụng chính sách với tín dụng thương mại. Khi thực hiện nhiệm vụ chính sách các TCTD cũng phải được hưởng những ưu đãi của chính sách như các đơn vị thụ hưởng: Được hỗ trợ nguồn vốn cho vay, cấp bù lãi suất do thực hiện chính sách giảm lãi suất, cách tính các hệ số an toàn, chính sách thuế...
Ba là, tạo điều kiện cho các NHTM tham gia hoặc thực hiện chính sách cho vay NNNT được nâng cao năng lực tài chính thông qua bổ sung vốn điều lệ, nhất là đối với NHTM 100% Nhà nước như Agribank. Từ đó mới đủ điều kiện tăng trưởng dư nợ và đảm bảo các hệ số an toàn theo quy định.
Bốn là, cơ chế xử lý rủi ro cần linh hoạt hơn. Việc không hình sự hóa các quan hệ tín dụng, xác định đến cùng trách nhiệm trả nợ của người vay phần nào giảm tâm lý lo ngại của cán bộ tín dụng khi thực hiện cho vay khách hàng.
Năm là, có cơ chế, chính sách, vai trò quản lý của Nhà nước trong việc kiểm soát các yếu tố đầu vào cũng như quy chuẩn chất lượng các sản phẩm đầu ra để đảm bảo các khâu từ sản xuất - chế biến - tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp được minh bạch, có chất lượng, tạo điều kiện khuyến khích đầu tư, sản xuất và tiêu thụ các sản phẩm nông nghiệp sạch với đặc thù giá thành cao.
Song song với đó, xử lý nghiêm minh các hành vi gian lận, vi phạm pháp luật trong toàn bộ quá trình đầu tư cho NNNT; quan tâm chỉ đạo rà soát, điều chỉnh và công bố quy hoạch các vùng sản xuất nông nghiệp tập trung ứng dụng công nghệ cao; chuyên môn hóa đối với cây trồng, vật nuôi cho phù hợp với lợi thế cạnh tranh và sự biến đổi khí hậu để Agribank có cơ sở cho vay...
Sáu là, có chính sách hỗ trợ dự báo và cung cấp thông tin thường xuyên về cung - cầu, giá cả thị trường trong nước và thế giới; hỗ trợ tuyên truyền, tiếp thị, quảng bá để tạo thương hiệu quốc gia thúc đẩy tiêu thụ các sản phẩm nông nghiệp.
Nhằm khuyến khích phát triển nông nghiệp sạch và bền vững, cung cấp nông sản thực phẩm chất lượng cao, an toàn cho người tiêu dùng, bảo vệ môi trường sinh thái, Agribank chính thức triển khai chương trình tín dụng ưu đãi phục vụ “Nông nghiệp sạch” từ ngày 1/11/2016 với quy mô không hạn chế về nguồn vốn, dành tối thiểu 50.000 tỷ đồng với mức lãi suất ưu đãi thấp hơn 0,5% - 1,5% so với lãi suất cho vay thông thường của Agribank. |