Thay đổi tư duy để hạn chế rủi ro
Trung Quốc sẽ duy trì chính sách tỷ giá thả nổi có kiểm soát | |
Trung Quốc hạ mục tiêu tăng trưởng năm 2017 để nhấn mạnh cải cách |
Các WMPs tương tự như một chứng chỉ tiền gửi ngân hàng với kỳ hạn ngắn nhưng lại có lợi suất cao hơn cho người mua. Do Ngân hàng Trung ương Trung Quốc (PBoC) duy trì lãi suất thấp nên các khoản tiền gửi chỉ có lợi suất khoảng 4%, trong khi WMPs lại đem đến mức lãi suất cao gấp 3 lần, từ 11-13%. Về cơ bản, chứng chỉ WMPs này cũng tương tự như các loại công cụ tài chính phái sinh như ABS, CMO, MBS, CDS... đã từng khiến nước Mỹ rơi vào cuộc khủng hoảng tài chính năm 2007 - 2009.
Nền kinh tế Trung Quốc hiện tăng trưởng ở mức thấp |
Quy trình của WMPs bắt đầu từ việc các ngân hàng sẽ bán WMPs cho các nhà đầu tư và hứa sẽ trả lãi suất cao hơn lãi suất tiết kiệm. Sau đó, họ dùng tiền này để đầu tư vào các tài sản ít rủi ro như trái phiếu chính phủ, trái phiếu DN, các sản phẩm thuộc thị trường tiền tệ và các tài sản hữu hình khác với mức độ rủi ro thấp. Mọi chuyện sẽ không có gì nếu các ngân hàng tuân thủ quy định là không được đầu tư quá 35% tổng vốn huy động được từ các WMPs, hoặc đầu tư vào các kênh đầu tư có độ rủi ro thấp như đã liệt kê ở trên.
Tuy nhiên, thực tế không phải như vậy. Hầu hết các WMPs phát hành ra đều có kỳ hạn ngắn nhưng các ngân hàng lại dùng tiền này để cho vay hoặc đầu tư vào các tài sản hạn dài với mức độ rủi ro cao, hoặc rót tiền vào các tài sản kém thanh khoản và rất rủi ro. Các nhà đầu tư Trung Quốc tin rằng, sản phẩm này được bảo lãnh bởi các ngân hàng hoặc các Chính quyền địa phương và do đó độ rủi ro thấp. Vì vậy, WMPs ngày càng phát triển và chúng đang đầu tư vào nhau.
Tuy nhiên, theo xu hướng này, các khoản đầu tư đầy rủi ro của một WMPs có thể ảnh hưởng đến các WMPs khác, đồng thời thể hiện rằng các WMPs đang gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm những tài sản đủ tốt để có thể đạt được mục tiêu về lợi suất. Mối lo đang ngày càng tăng lên, sau khi tính đến nay đã ít nhất 10 công ty Trung Quốc đã vỡ nợ trái phiếu, chỉ số Shanghai Composite đã giảm mạnh trong năm qua và nền kinh tế Trung Quốc hiện chỉ tăng trưởng ở mức thấp.
Theo số liệu thống kê chính thức, số nợ xấu từ WMPs đã lên đến 23.500 tỷ Nhân dân tệ, chiếm 35% GDP Trung Quốc và gấp hơn 3 lần so với 3 năm trước. Trung bình 3.500 WMPs được phát hành mỗi tuần và 85% số WMPs được nắm giữ bởi các WMPs khác. Thậm chí có một số trường hợp các sản phẩm này chẳng qua là được quay vòng để các ngân hàng có thể thu phí. Các WMPs đang là nhà đầu tư lớn nhất trên thị trường trái phiếu doanh nghiệp Trung Quốc.
Hiện tại, giá trị thị trường của sản phẩm đầu tư này đã lên đến xấp xỉ 4 nghìn tỷ USD, tức là chiếm gần 40% GDP Trung Quốc. Điều này đang khiến nguy cơ vỡ nợ dây chuyền có xu hướng gia tăng tại Trung Quốc.
Đây thực sự là một vấn đề, và các nhà quản lý tại Trung Quốc cũng biết rõ điều đó. Gần đây, các nhà làm luật tại Trung Quốc đã liên tục phát đi những tín hiệu cảnh báo đối với công cụ tài sản này, đồng thời quyết định đưa công cụ này vào đối tượng thuộc khuôn khổ đánh giá rủi ro trong năm 2017.
Bên cạnh đó, Chính phủ cũng đang quyết định đưa ra các biện pháp hạn chế đối với các khoản cho vay WMPs mới với kỳ vọng sẽ hạn chế bớt việc gia tăng lượng phát hành mới.
Tuy nhiên, vẫn còn có những lý do để nghi ngờ hiệu quả của các biện pháp quản lý mới này. Trước hết, có thể thấy các quy định quản lý đối với WMPs vẫn chưa thực sự đầy đủ. Các ngân hàng vẫn được phép nắm giữ các tài sản quản lý ngoại bảng, do đó vẫn có thể dễ dàng thực hiện các hoạt động cho vay dưới chuẩn và không đáp ứng đủ các tiêu chuẩn về an toàn vốn.
Khi các công ty tài chính bán các sản phẩm tài chính phái sinh như vậy, họ cũng được phép liên kết với đối tác là các ngân hàng quốc doanh, từ đó giúp tăng uy tín của các sản phẩm vay có mức độ rủi ro cao. Hoạt động đầu tư chéo giữa các sản phẩm tài chính phái sinh cũng được cho phép, từ đó càng làm gia tăng rủi vỡ nợ dây chuyền.
Điều này đặt ra yêu cầu Trung Quốc tiếp tục phải có những nghiên cứu đầy đủ và thực hiện các biện pháp mạnh tay hơn mới có thể quản lý và giám sát được những rủi ro gia tăng trong hệ thống tài chính thời gian tới.