Chỉ số kinh tế:
Ngày 4/12/2025, tỷ giá trung tâm của VND với USD là 25.152 đồng/USD, tỷ giá USD tại Cục Quản lý ngoại hối là 23.946/26.360 đồng/USD. Kinh tế tháng 10 tiếp tục khởi sắc, khi sản xuất công nghiệp tăng 10,8%, gần 18 nghìn doanh nghiệp mới ra đời, đầu tư công tăng 29,1%, FDI đạt 31,52 tỷ USD. Xuất nhập khẩu đạt 81,49 tỷ USD, xuất siêu 2,6 tỷ USD, CPI tăng nhẹ 0,2%, và khách quốc tế đạt 1,73 triệu lượt, cho thấy đà phục hồi vững của kinh tế Việt Nam.
dai-hoi-cong-doan

Tín hiệu tích cực từ xếp hạng tín dụng

 - 
Tổn thất từ rủi ro tín dụng là rất nghiêm trọng, bởi không những làm giảm lợi nhuận của ngân hàng mà còn ảnh hưởng đến an toàn của toàn hệ thống. Nghiên cứu biện pháp để nhận biết, đo lường và hạn chế được rủi ro tín dụng là một yêu cầu cấp bách đối với các NHTM và cơ quan quản lý Nhà nước.
aa

Hình thành từ nhu cầu thực tế

Hoạt động tín dụng cơ bản vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu doanh thu và lợi nhuận của các NHTM. Trong quá trình cấp tín dụng, các NHTM khó tránh khỏi rủi ro tín dụng phát sinh từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Tổn thất từ rủi ro tín dụng là rất nghiêm trọng, bởi không những làm giảm lợi nhuận của ngân hàng mà còn ảnh hưởng đến an toàn của toàn hệ thống. Do vậy, nghiên cứu biện pháp để nhận biết, đo lường và hạn chế được rủi ro tín dụng là một yêu cầu cấp bách đối với các NHTM và cơ quan quản lý Nhà nước.

Từ đó, hoạt động xếp hạng tín dụng (XHTD) ra đời như là một xu thế tất yếu nhằm hỗ trợ cho các TCTD trong việc đưa ra quyết định cấp tín dụng và hạn chế rủi ro tín dụng. Từ giai đoạn đầu xây dựng, Trung tâm Thông tin tín dụng Quốc gia Việt Nam (CIC) đã không ngừng nghiên cứu phương pháp xếp hạng từ các tổ chức xếp hạng có uy tín trên thế giới như Moody’s, Standard and Poors, Fitch… Xây dựng mô hình và thu thập thông tin để kiểm nghiệm mô hình xếp hạng sao cho phù hợp với điều kiện thực tế tại Việt Nam.

Ngày 29/1/2002, Thống đốc NHNN đã ban hành Quyết định số 57/2002/QĐ-NHNN về việc triển khai thí điểm đề án phân tích, xếp loại tín dụng DN. Đây là dấu mốc quan trọng cho hoạt động XHTD tại CIC, ban đầu phương pháp xếp hạng mới chỉ dừng lại ở việc phân tích, đánh giá dựa trên các chỉ tiêu tài chính của DN.

Sau thí điểm thành công, đến ngày 28/4/2004, Quyết định số 473/2004/QĐ-NHNN được ban hành cho phép chính thức triển khai đề án phân tích, XHTD DN. Từ đây, báo cáo phân tích XHTD DN đã được chính thức cung cấp cho các TCTD, góp phần giúp các TCTD trong việc đưa ra các quyết định cấp tín dụng, phòng ngừa, hạn chế rủi ro tín dụng.

Trước yêu cầu ngày càng khắt khe về việc đánh giá rủi ro tín dụng của các TCTD, chất lượng báo cáo XHTD cũng ngày càng được nâng cao như việc đưa vào đánh giá thêm các thông tin phi tài chính, thông tin về tình hình quan hệ tín dụng của DN tại các TCTD. Bên cạnh đó, từ 4 ngành kinh tế trước đây, căn cứ theo ngành nghề kinh doanh chính, các DN được chia thành 8 ngành kinh tế.

Đến ngày 21/6/2006, Thống đốc NHNN đã ban hành Quyết định số 1253/2006/QĐ-NHNN cho phép CIC thực hiện nghiệp vụ phân tích, xếp hạng DN nhằm mục đích tăng cường công tác quản lý rủi ro tín dụng trong hệ thống ngân hàng, mở rộng xếp hạng các DN có nhu cầu tự đăng ký xếp hạng chính DN mình. Đối tượng xếp hạng là các DN thuộc mọi thành phần kinh tế như DNNN, công ty TNHH, CTCP, DN tư nhân…

Đến năm 2010, CIC tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng báo cáo XHTD bằng việc tăng cường đánh giá các thông tin về lịch sử quan hệ tín dụng, đánh giá về năng lực lãnh đạo của DN và phân ngành kinh tế chuyển từ 8 ngành sang 20 ngành kinh tế cho sát với ngành nghề kinh doanh của các DN tại Việt Nam.

Mặt khác, CIC liên tục phát hành các ấn phẩm tổng hợp chuyên ngành như ấn phẩm XHTD các DN ngành dệt may, da giày, thủy sản, ấn phẩm xếp hạng các DN niêm yết trên thị trường chứng khoán và Top 1000 DN Việt Nam được phát hành hàng năm dưới dạng ấn phẩm và Ebook. Có thể nói, đây thực sự là những tài liệu có giá trị, một kênh thông tin hữu ích cho các TCTD, các nhà đầu tư trong việc hoạch định chính sách tín dụng cũng như lựa chọn cơ hội đầu tư.

Những bước chuyển mình

Năm 2012 được coi là dấu mốc quan trọng trong việc cải tiến phương pháp XHTD. Từ việc chuyển từ 20 ngành sang 35 ngành kinh tế kết hợp phân tích các mô hình đánh giá thông tin phi tài chính, thông tin tài chính, mô hình phân tích thông tin quan hệ tín dụng, mô hình đánh giá tác động mối liên quan DN, thông tin công ty mẹ - công ty con. Cùng với việc đưa vào đánh giá các thông tin có giá trị như thông tin tổng hợp phân tích ngành, tác động chính sách Nhà nước đến DN, xem xét các thông tin tiêu cực, vi phạm pháp luật, thông tin đánh giá chuyên gia, tăng giảm hạng DN, báo cáo XHTD đã được nâng cao về chất lượng và ngày càng được các đối tượng sử dụng đánh giá cao.

Đặc biệt, trong giai đoạn này, phương pháp xếp hạng các tập đoàn, tổng công ty cũng được xây dựng và báo cáo XHTD tập đoàn, tổng công ty được cung cấp cho các đối tượng sử dụng, đã xem xét tác động của công ty mẹ đến các công ty con và ngược lại. Đây thực sự là một bước ngoặt quan trọng cho hoạt động XHTD DN.

Đến nay, số lượng báo cáo XHTD được tạo lập và cung cấp ngày càng gia tăng mạnh mẽ. Báo cáo XHTD DN được cung cấp cho các cơ quan quản lý Nhà nước như các báo cáo thông tin về tập đoàn, tổng công ty, các DN tổng hợp theo nhiều ngành nghề, quy mô để góp phần cho công tác quản lý, hoạch định chính sách vĩ mô, hạn chế rủi ro trong hệ thống ngân hàng.

Không những thế, nhu cầu về sử dụng báo cáo XHTD của các TCTD ngày càng nhiều, cho thấy được vai trò quan trọng của báo cáo XHTD trong việc phòng ngừa rủi ro tín dụng ngân hàng. Cụ thể, báo cáo XHTD là cơ sở cho việc lựa chọn khách hàng cho vay bởi thông qua việc đánh giá mức độ tín nhiệm của khách hàng vay vốn, đo lường mức độ rủi ro tín dụng, khả năng trả nợ của DN, TCTD sẽ đưa ra quyết định cho vay hiệu quả nhất.

Đồng thời, báo cáo XHTD cũng là cơ sở để xây dựng chính sách tín dụng, danh mục tín dụng, bởi thông qua XHTD, TCTD sẽ phân loại khách hàng theo từng tiêu chí như ngành nghề kinh doanh, quy mô, địa bàn hoạt động, mức độ rủi ro để từ đó xây dựng danh mục tín dụng cho từng thời kỳ, áp dụng chính sách khách hàng về lãi suất cho vay, hạn mức và thời hạn tín dụng phù hợp, đồng thời có các biện pháp kiểm soát chặt chẽ đối với những khoản vay tín nhiệm thấp để hạn chế rủi ro tín dụng xảy ra.

Mặt khác, là cơ sở để hoàn thiện hệ thống XHTD nội bộ, phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro, các TCTD căn cứ vào các báo cáo XHTD như là một kênh tham khảo cho việc hoàn thiện hệ thống XHTD nội bộ. Kết quả là căn cứ để tính toán, trích lập dự phòng rủi ro theo Quy định trong Thông tư 02/2013/TT-NHNN.

Hoạt động XHTD tại CIC mang tính khách quan, đánh giá được mức độ rủi ro, khả năng trả nợ của khách hàng vay, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động tín dụng tại các TCTD. Với mục tiêu hoàn thiện và nâng cao chất lượng công tác XHTD, CIC cũng cần tiếp tục nghiên cứu phương pháp xếp hạng, nâng cao chất lượng báo cáo XHTD, nắm bắt công nghệ để theo kịp với các chuẩn mực, thông lệ quốc tế và ngày càng phù hợp với thực tế ở Việt Nam.

CIC cần định hướng mở rộng hoạt động XHTD, tăng độ bao phủ XHTD trong nền kinh tế, hướng đến 100% các DN đều được đánh giá xếp hạng trong tương lai nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu XHTD cho các TCTD, góp phần giảm thiểu rủi ro tín dụng, kiểm soát tỷ lệ nợ xấu tại các TCTD, đồng thời giúp cho các cơ quan quản lý Nhà nước thực hiện các chính sách vĩ mô, giữ ổn định trong hệ thống ngân hàng.

Phương Thảo

thoibaonganhang.vn

Tin liên quan

Tin khác

Nông nghiệp tăng tốc xuất khẩu

Nông nghiệp tăng tốc xuất khẩu

Biến đổi khí hậu tác động mạnh mẽ lên nông nghiệp Việt Nam, từ miền núi đến đồng bằng. Trong bối cảnh khó khăn chồng chất, ngành nông nghiệp và môi trường vẫn ghi nhận tín hiệu phục hồi, đặc biệt ở xuất khẩu các mặt hàng nông, lâm, thủy sản.
Đột phá hạ tầng và chuyển đổi số cho logistics Việt Nam

Đột phá hạ tầng và chuyển đổi số cho logistics Việt Nam

Chiến lược phát triển dịch vụ logistics Việt Nam thời kỳ 2025 - 2035, tầm nhìn đến 2050 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 2229/QĐ-TTg ngày 09/10/2025. Đây là lần đầu tiên Việt Nam có một chiến lược đồng bộ, toàn diện và dài hạn về logistics, đánh dấu bước ngoặt lớn của ngành trong giai đoạn mới.
TP. Hồ Chí Minh thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ trợ trong chuỗi cung ứng toàn cầu

TP. Hồ Chí Minh thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ trợ trong chuỗi cung ứng toàn cầu

Ngày 4/12/2025, Trung tâm Xúc tiến Thương mại và Đầu tư TP.HCM (ITPC) phối hợp Hiệp hội Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam (VASI), Hiệp hội Công nghiệp hỗ trợ TP.HCM (HASI) và Viện Quản trị Chính sách và Chiến lược phát triển (IPADS) tổ chức Diễn đàn “Thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ trợ Việt Nam trong chuỗi cung ứng toàn cầu” tại Trung tâm Triển lãm Quốc tế WTC Expo, phường Bình Dương, TP.HCM.
Tuần lễ kết nối giao thương giới thiệu sản phẩm Việt Nam tại hệ thống phân phối hiện đại

Tuần lễ kết nối giao thương giới thiệu sản phẩm Việt Nam tại hệ thống phân phối hiện đại

Ngày 4/12/2025, Trung tâm Xúc tiến Thương mại và Đầu tư TP.HCM (ITPC) phối hợp Công ty TNHH AEON Việt Nam tổ chức Lễ khai mạc “Tuần lễ kết nối giao thương và không gian giới thiệu sản phẩm Việt Nam tại hệ thống phân phối hiện đại AEON Việt Nam năm 2025”. Sự kiện diễn ra tại AEON MALL Bình Tân, nằm trong chuỗi hoạt động xúc tiến thương mại thường niên hỗ trợ doanh nghiệp mở rộng đầu ra và tiếp cận hệ thống phân phối hiện đại.
VIFTA – Động lực mới cho thương mại và đầu tư Việt Nam – Israel

VIFTA – Động lực mới cho thương mại và đầu tư Việt Nam – Israel

Sau một năm chính thức có hiệu lực, Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – Israel (VIFTA) đang dần định hình vai trò là một cấu phần quan trọng trong mạng lưới hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Với mức độ cam kết sâu, thị trường tiềm năng và cấu trúc kinh tế bổ trợ, VIFTA không chỉ mở ra cơ hội xuất khẩu mà còn đặt ra yêu cầu mới về cải cách thể chế, nâng cao năng lực doanh nghiệp và hoàn thiện hệ sinh thái hỗ trợ hội nhập.
VPBank là ngân hàng duy nhất nhận hai giải thưởng tại VLCA 2025

VPBank là ngân hàng duy nhất nhận hai giải thưởng tại VLCA 2025

VPBank giành hai giải thưởng “Top 10 Báo cáo Thường niên tốt nhất – Nhóm ngành Tài chính” và “Giải Ba Báo cáo Phát triển Bền vững – Nhóm ngành Tài chính” tại VLCA 2025. Đây là minh chứng cho nỗ lực không ngừng của VPBank trong việc nâng tầm quản trị doanh nghiệp, minh bạch thông tin và thực hành ESG, đồng thời khẳng định uy tín quốc tế, vị thế tiên phong và cam kết tạo giá trị bền vững cho cổ đông, khách hàng và cộng đồng.
Khát vọng tạo giá trị bền vững từ năng lượng tái tạo của Bầu Hiển

Khát vọng tạo giá trị bền vững từ năng lượng tái tạo của Bầu Hiển

Chuẩn bị tâm thế, tiềm lực và chiến lược từ sớm, từ xa, nên khi bước vào lĩnh vực năng lượng tái tạo, T&T Group nhanh chóng nổi lên như một “ông lớn” với loạt dự án tầm quốc gia, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững, góp sức cùng Chính phủ thực hiện thành công cam kết phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Với riêng Nhà Sáng lập, Chủ tịch Điều hành Đỗ Quang Hiển, làm năng lượng sạch không phải xin dự án chỉ để kiếm lợi nhuận. Lớn hơn, đó còn là khát vọng làm ra những giá trị bền vững cho xã hội, công đồng, đất nước.
Sở hữu trí tuệ - công cụ để cạnh tranh và tăng trưởng mới

Sở hữu trí tuệ - công cụ để cạnh tranh và tăng trưởng mới

Việt Nam đang hướng tới trở thành quốc gia phát triển, thu nhập cao vào năm 2045 dựa vào năng lực đổi mới sáng tạo và sức mạnh của nền kinh tế số. Trong bối cảnh đó, tài sản vô hình, từ quyền sở hữu trí tuệ, thương hiệu, bí quyết công nghệ đến dữ liệu và phần mềm chính là “mỏ vàng” của thời đại mới.
Logistics xanh - lời giải cho sức ép chi phí và tiêu chuẩn bền vững

Logistics xanh - lời giải cho sức ép chi phí và tiêu chuẩn bền vững

Việt Nam đang đối mặt với bài toán kép: vừa phải kéo giảm chi phí logistics vốn đang ở mức cao hàng đầu khu vực, vừa phải đáp ứng các tiêu chuẩn xanh hóa ngày càng ngặt nghèo từ các thị trường xuất khẩu chủ lực. Trong bối cảnh đó, phát triển logistics xanh không chỉ là xu thế mang tính tất yếu, mà đang trở thành lời giải khả thi nhất để hóa giải cùng lúc hai áp lực lớn.
[Infographic] Từ 1/1/2026, lương tối thiểu tăng bình quân 7,2%

[Infographic] Từ 1/1/2026, lương tối thiểu tăng bình quân 7,2%

Theo quy định tại Nghị định số 293/2025/NĐ-CP, từ 1/1/2026 mức lương tối thiểu đối với người lao động làm việc theo hợp đồng lao động tăng từ 250.000 đồng - 350.000 đồng/tháng so với quy định tại Nghị định 74/2024/NĐ-CP.