Chỉ số kinh tế:
Ngày 20/6/2025, tỷ giá trung tâm của VND với USD là 25.031 đồng/USD, tỷ giá USD tại Cục Quản lý ngoại hối nhà nước là 23.830/26.232 đồng/USD. Tháng 5/2025, chỉ số IIP ước tăng 4,3% so với tháng trước và 9,4% so với cùng kỳ. Cả nước có hơn 15,1 nghìn doanh nghiệp thành lập mới, tăng 6,1% so với cùng kỳ. Vốn đầu tư công tăng mạnh 15,3%, FDI đăng ký tăng 51,2%, FDI thực hiện tăng 7,9%. Tổng thu ngân sách đạt 172,4 nghìn tỷ đồng, lũy kế 5 tháng tăng 24,5%. Xuất nhập khẩu đạt 78,64 tỷ USD, tăng 15,5%; CPI tăng nhẹ 0,16%, lạm phát cơ bản giữ ở mức 3,10%. Việt Nam đón 1,53 triệu lượt khách quốc tế trong tháng, nâng tổng 5 tháng lên 9,2 triệu lượt, tăng 21,3% so với cùng kỳ.
banner-dai-hoi-dang
Điện gió ngoài khơi: Động lực mới cho ngành dầu khí Việt Nam phát triển bền vững

Bài 3: Cần giải pháp đột phá để tạo không gian phát triển mới

Trần Hương – Thanh Sơn
Trần Hương – Thanh Sơn  - 
Để tạo điều kiện cho sự phát triển bền vững, Bộ Chính trị đã ban hành Kết luận số 76-KL/TW ngày 24/4/2024, khẳng định định hướng, chủ trương cho phép Petrovietnam tham gia chuỗi giá trị năng lượng mới, năng lượng tái tạo (NLTT), đặc biệt là phát triển các dự án điện khí, điện gió ngoài khơi. Tuy nhiên, để các chủ trương, định hướng đi vào thực tế, cần sự chung tay của Chính phủ và các bộ ban ngành, trong việc tháo gỡ khó khăn, vướng mắc để các Tập đoàn kinh tế lớn thực sự trở thành những “quả đấm thép”…
aa
Petrovietnam sẵn sàng cho chặng đường chuyển dịch năng lượng Bài 2: Chủ động tạo nền tảng và những bước đi vững chắc

Theo TS. Nguyễn Quốc Thập, Chủ tịch Hội Dầu khí Việt Nam, đã đến lúc cần giải pháp đột phá để tạo không gian phát triển mới, tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy các dự án điện khí LNG và điện gió ngoài khơi phát triển đạt kỳ vọng. Đặc biệt là sửa đổi điều lệ tổ chức hoạt động và quy chế tài chính của các tập đoàn kinh tế Nhà nước trong lĩnh vực năng lượng, nhằm tạo thuận lợi phát triển điện gió ngoài khơi, điện khí LNG.

Nhiều vướng mắc trong chấp thuận chủ trương đầu tư

Đối với các dự án điện khí LNG, điện gió ngoài khơi theo quy hoạch năng lượng quốc gia và Quy hoạch Điện VIII, TS. Thập cho biết, hiện tổng quy mô công suất 23 dự án được đầu tư xây dựng, đưa vào vận hành đến năm 2030 là 30.424 MW. Trong đó, nhà máy điện khí sử dụng khí khai thác trong nước là 7.900 MW (10 dự án); nhà máy điện khí sử dụng LNG đạt khoảng 22.400 MW (13 dự án).

Về tình hình đầu tư xây dựng, đến tháng 6/2024, Nhà máy nhiệt điện Ô Môn I có công suất 660 MW đang sử dụng nhiên liệu dầu đã được đưa vào vận hành và sau đó sẽ sử dụng khí Lô B; Dự án Nhà máy nhiệt điện Nhơn Trạch 3 và 4, công suất 1.624 MW, tiến độ đạt 85% sử dụng LNG từ Kho cảng LNG Thị Vải đang được xây dựng. Ngoài ra, còn có 18 dự án đang trong quá trình đầu tư xây dựng, trong đó có 9 dự án sử dụng khí khai thác trong nước và 3 dự án đang lựa chọn nhà đầu tư với tổng công suất 4.500 MW. Hiện mới có 1 dự án ĐGNK được sự cho phép của Thủ tướng Chính phủ khảo sát và nghiên cứu tiền khả thi giữa Tổng công ty Cổ phần Dịch vụ Kỹ thuật Dầu khí Việt Nam cùng đối tác Singapore.

Phân tích các khó khăn, vướng mắc chung về cơ chế chính sách trong phát triển dự án điện khí LNG và điện gió ngoài khơi, ông Thập nhấn mạnh, việc điều chỉnh Quy hoạch phát triển điện hiện chưa có hướng dẫn trình tự, thủ tục thẩm định, phê duyệt đối với các dự án đầu tư. Cơ chế tài chính và thu xếp vốn gặp vướng mắc do vượt quy định về giới hạn tỷ lệ an toàn tín dụng 15% vốn điều lệ khi cho vay theo quy định của Luật Tổ chức tín dụng, do vốn cần thu xếp huy động cho các dự án điện lớn.

Đáng chú ý, hầu hết các dự án điện không thuộc đối tượng được cấp bảo lãnh Chính phủ. Hiện chưa đủ cơ sở pháp lý thay thế bảo lãnh Chính phủ để có thể vay vốn/thu xếp vốn cho các dự án, đặc biệt là đối với các doanh nghiệp Nhà nước như Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (Petrovietnam), Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), Tập đoàn công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV).

Ngoài ra, chính sách ưu đãi cho đầu tư phát triển các dự án điện, dự án sử dụng nguồn LNTT, năng lượng mới theo Luật Điện lực chậm được ban hành. Tiến độ dự án đấu nối và truyền tải điện chậm gây khó khăn cho các chủ đầu tư trong việc ra quyết định và tối ưu hiệu quả đầu tư. Việc bàn giao, tiếp nhận tài sản, công trình điện hình thành từ nguồn vốn của doanh nghiệp Nhà nước sang ngành điện quản lý vận hành chưa được luật hóa và có hướng dẫn về nguyên tắc chung…

Về khó khăn, thách thức trong phát triển dự án điện khí – LNG, Chủ tịch Hội Dầu khí Việt Nam cho biết, thị trường tiêu thụ tăng trưởng chậm so với mục tiêu trong Quy hoạch điện VIII. Trong khi đó, khung pháp lý để hoàn thành, đẩy nhanh tiến độ đàm phán và ký kết thỏa thuận về pháp lý – kinh tế - thương mại giữa các chủ thể trong chuỗi dự án liên quan đến khí LNG vẫn chưa hoàn thiện.

Cơ chế, tiêu chí để lựa chọn nhà đầu tư trong xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ nhập khẩu LNG chưa có hướng dẫn cụ thể để các nhà đầu tư tham gia. Chưa có cơ chế bảo lãnh bảo đảm chuyển đổi ngoại tệ và nghĩa vụ thanh toán quốc tế về nhập khẩu LNG cho các dự án điện khí – LNG. Việt Nam hiện cũng chưa có quy định bên mua điện thực hiện bao tiêu sản lượng điện đối với điện khí LNG và cơ chế chuyển ngang giá khí sang giá điện của các nhà máy điện khí LNG.

Luật Giá hiện hành cũng chưa quy định cước phí nhập khẩu, tồn trữ, tái hóa LNG thuộc danh mục hàng hóa do Nhà nước định giá nên cước phí này sẽ được các bên liên quan đàm phán và thống nhất, dẫn đến gặp khó khăn trong quá trình đàm phán, ký kết hợp đồng mua bán khí LNG và điện tương ứng…

Về việc đầu tư phát triển các dự án điện gió ngoài khơi, TS. Nguyễn Quốc Thập thông tin, theo Quy hoạch điện VIII, công suất ĐGNK đến năm 2030 đạt 6.000 MW, định hướng đến năm 2050 đạt từ 70.000 - 91.000 MW. Tuy nhiên, việc chấp thuận chủ trương và lựa chọn nhà đầu tư trong lĩnh vực điện gió còn có nhiều vướng mắc và chưa thống nhất giữa các văn bản quản lý pháp luật hiện hành. Các Luật Đấu thầu, Luật Đầu tư, Luật Đất đai đều chưa quy định rõ và cụ thể về thẩm quyền chấp thuận chủ trương đầu tư của các cấp đối với các dự án điện gió ngoài khơi.

Công tác điều tra, khảo sát, thăm dò, đo đạc trên biển và giao khu vực biển để đầu tư dự án ĐGNK chưa có quy định hướng dẫn cụ thể về trình tự, thủ tục tại các văn bản pháp lý, chưa có khung chính sách giá, cơ chế giá. Điều kiện đầu tư dự án điện gió đối với nhà đầu tư nước ngoài còn chưa rõ ràng.

Công trường thi công chân đế điện gió ngoài khơi tại cảng PTSC
Công trường thi công chân đế điện gió ngoài khơi tại cảng PTSC

Cần giải pháp đột phá

Để tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy các dự án điện khí LNG và điện gió ngoài khơi phát triển đạt kỳ vọng, TS. Nguyễn Quốc Thập đề xuất các nhóm giải pháp.

Thứ nhất, nhóm giải pháp về khung pháp lý và cơ chế chính sách, cần sửa đổi và bổ sung một cách đồng bộ các Bộ luật, gồm: Luật Điện lực, Luật Bảo vệ môi trường (kiểm đếm phát thải khí CO2; quy định, điều kiện quy đổi khí phát thải); Luật Thuế (cơ chế thuế phí đối với đầu tư, vận hành các dự án điện khí LNG, các dự án/công trình ĐGNK; thuế xuất khẩu điện; tiêu chuẩn phát thải và khung thuế phí mua bán khí phát thải CO2); Luật Tài nguyên môi trường Biển và Hải đảo; Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu, Luật Xây dựng, Luật Đất đai...

Thứ hai, nghiên cứu phát triển thị trường điện theo sát với mục tiêu Quy hoạch điện VIII cần xây dựng tập trung và đồng bộ cụm kho cảng LNG, nhà máy điện và các khu công nghiệp/nhà máy có nhu cầu sử dụng điện đủ lớn. Có giải pháp thu hút và khuyến khích các nhà đầu tư các loại hình khu công nghiệp, cam kết tiêu thụ điện dài hạn cùng với chuỗi nhà máy điện và kho cảng LNG, ĐGNK. Đa dạng hóa việc đầu tư hạ tầng truyền tải điện tiêu thụ trong nước và xuất khẩu, đặc biệt là truyền tải cho các nhà máy điện khí LNG và ĐGNK.

Thứ ba, về nhóm giải pháp về cơ chế quản lý và thực thi, cần sửa đổi điều lệ tổ chức hoạt động và quy chế tài chính của các Tập đoàn kinh tế Nhà nước trong lĩnh vực năng lượng như Petrovietnam, EVN, TKV. Trong đó, chú trọng quy định về điều kiện thu xếp vốn đối với các dự án không được cấp bảo lãnh Chính phủ, cho phép các tập đoàn được thế chấp tài sản với các chủ thể trong hoạt động mua bán khí LNG và mua bán điện trong các giao dịch PL-KT-TM trong chuỗi dự án điện LNG và các hộ tiêu thụ điện. Hội Dầu khí Việt Nam kiến nghị nâng cấp nghị định về điều lệ tổ chức và hoạt động, quy chế tài chính của các Tập đoàn Petrovietnam, EVN, TKV tương đương với bộ Luật do Quốc hội ban hành nhằm bảo đảm đủ hành lang pháp lý.

Thứ tư, với nhóm giải pháp tham vấn và học hỏi kinh nghiệm, cần tăng cường mở rộng hợp tác quốc tế sâu rộng, học hỏi về mô hình quản trị đầu tư trong lĩnh vực năng lượng, trong đó có lĩnh vực năng điện khí LNG, điện gió ngoài khơi nhằm có điều kiện, cơ hội để xây dựng, hoàn thiện chính sách về năng lượng; học hỏi về mô hình quản trị đầu tư, xây dựng về công nghệ, tài chính và kinh nghiệm về triển khai các dự án điện khí LNG và điện gió ngoài khơi; học hỏi kinh nghiệm về vận hành hiệu quả và tối ưu các nhà máy trong lĩnh vực này.

Thứ năm, với nhóm giải pháp giúp thay đổi nhận thức và tư duy về điện khí LNG và ĐGNK, Hội Dầu khí Việt Nam đề xuất, điện khí LNG cần được hấp thụ hay tiêu thụ bởi các khu công nghiệp hay các nhà máy chế biến và nói rộng hơn là nền kinh tế. Giá điện khí LNG đề xuất tính toán theo cơ chế thị trường, do chi phí nhập khẩu LNG chiếm phần lớn trong giá thành sản xuất điện. Các cam kết dài hạn về mua bán khí LNG về hợp đồng mua bán điện với khách hàng tiêu thụ và mở rộng đối tượng được mua bán điện trực tiếp.

Thứ sáu, về nhóm giải pháp mang tính đột phá, TS. Nguyễn Quốc Thập kiến nghị Thủ tướng Chính phủ báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét để ban hành Nghị quyết chuyên đề của Quốc hội gồm các điều kiện cần thiết và cho phép triển khai song song với quá trình hoàn thiện các Bộ Luật theo tinh thần của Nghị quyết chuyên đề đó. “Đây là điều cần và đủ để quá trình hiện thực hóa các mục tiêu Chiến lược, Quy hoạch quốc gia trong lĩnh vực năng lượng, đặc biệt là điện khí LNG và ĐGNK.

Trần Hương – Thanh Sơn

Tin liên quan

Tin khác

Hợp tác Việt – Hàn trong lĩnh vực giao thông và đô thị: Cơ hội kết nối từ Hội nghị Giao thương 2025

Hợp tác Việt – Hàn trong lĩnh vực giao thông và đô thị: Cơ hội kết nối từ Hội nghị Giao thương 2025

Dự kiến vào ngày 2/7 tới đây, tại Hà Nội, “Hội nghị Giao thương Việt Nam – Hàn Quốc ngành Giao thông và Đô thị 2025” sẽ diễn ra tại khách sạn Lotte, quy tụ nhiều doanh nghiệp của Hàn Quốc hoạt động trong lĩnh vực hạ tầng giao thông, công nghệ đô thị và xây dựng thông minh. Đây là sự kiện do Viện Phát triển Công nghệ Giao thông Hàn Quốc (KAIA) và Viện Nghiên cứu Công nghệ Xây dựng Hàn Quốc (KICT) tổ chức, nhằm hỗ trợ, thúc đẩy kết nối giữa các doanh nghiệp vừa và nhỏ Hàn Quốc với đối tác tiềm năng tại Việt Nam.
Nhượng quyền thương hiệu Việt hướng ra toàn cầu

Nhượng quyền thương hiệu Việt hướng ra toàn cầu

Nhượng quyền thương hiệu gắn với xuất khẩu nguyên liệu đang là mô hình đầu tư lợi nhuận cao, ít rủi ro được nhiều doanh nghiệp lựa chọn như một chiến lược dài hạn mang lại dòng thu nhập bền vững và tăng khả năng quốc tế hóa.
BIDV SME Fast Track: Ưu đãi đặc biệt cho doanh nghiệp

BIDV SME Fast Track: Ưu đãi đặc biệt cho doanh nghiệp

Để hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa (SME) bứt phá trong môi trường kinh doanh ngày càng cạnh tranh, BIDV đã ra mắt chương trình ưu đãi SME Fast Track với 03 gói tài khoản cùng những ưu đãi chuyên biệt cho doanh nghiệp SME.
Nghị quyết 68 “định hình lại” năng lực cạnh tranh Việt Nam

Nghị quyết 68 “định hình lại” năng lực cạnh tranh Việt Nam

Nghị quyết 68 không chỉ thúc đẩy mạnh mẽ khu vực kinh tế tư nhân và thu hút dòng vốn FDI chất lượng cao, mà còn giúp Việt Nam chuyển mình từ điểm đến sản xuất chi phí thấp sang trung tâm công nghiệp công nghệ cao, minh bạch và bền vững, sẵn sàng đón làn sóng dịch chuyển chuỗi cung ứng toàn cầu.
Chuyên gia đề xuất ban hành danh mục phân loại xanh

Chuyên gia đề xuất ban hành danh mục phân loại xanh

Các chuyên gia kiến nghị sớm ban hành danh mục phân loại xanh thiết lập bộ tiêu chí đánh giá dự án và hệ thống dữ liệu đánh giá rủi ro môi trường – xã hội.
Khoa học dữ liệu - chiếc chìa khóa vàng mở cánh cửa nghề nghiệp thời đại số

Khoa học dữ liệu - chiếc chìa khóa vàng mở cánh cửa nghề nghiệp thời đại số

Từng bị coi là lựa chọn mạo hiểm và đầy rủi ro, ngành Khoa học dữ liệu (Data Science) giờ đây đang vươn lên mạnh mẽ, trở thành một trong ba ngành nghề có thu nhập cao nhất tại Việt Nam theo báo cáo thị trường việc làm năm vừa qua. Không còn là lĩnh vực dành riêng cho “dân công nghệ”, Data Science đang chứng minh là “tấm vé vàng” cho những người trẻ sẵn sàng thích nghi với kỷ nguyên trí tuệ nhân tạo và tự động hóa.
Tái định nghĩa vai trò phòng nhân sự trong doanh nghiệp hiện đại

Tái định nghĩa vai trò phòng nhân sự trong doanh nghiệp hiện đại

Suốt nhiều thập kỷ qua, phòng nhân sự (HR) thường được nhìn nhận như một bộ phận hành chính thuần túy lo thủ tục tuyển dụng, quản lý hồ sơ, chấm công, tính lương. Tuy nhiên, trong bối cảnh thị trường cạnh tranh gay gắt, công nghệ thay đổi chóng mặt và thế hệ lao động mới coi trọng giá trị cá nhân hơn thu nhập, vai trò của phòng nhân sự đã và đang được tái định nghĩa một cách sâu sắc.
Tạo dựng hệ sinh thái thuế minh bạch cho kinh tế tư nhân

Tạo dựng hệ sinh thái thuế minh bạch cho kinh tế tư nhân

Ngành thuế đang chuyển đổi mạnh mẽ từ quản lý sang phục vụ, lấy hộ kinh doanh làm trung tâm hỗ trợ. Việc số hóa toàn diện, áp dụng công nghệ và minh bạch chính sách, hỗ trợ người nộp thuế là trọng tâm, nhằm tạo dựng một hệ sinh thái thuế hiện đại, công bằng và hiệu quả.
Thích ứng với những thách thức: Ngành thực phẩm và đồ uống Việt Nam trong quý 1/2025 và chặng đường phía trước

Thích ứng với những thách thức: Ngành thực phẩm và đồ uống Việt Nam trong quý 1/2025 và chặng đường phía trước

Bối cảnh kinh tế vĩ mô của Việt Nam trong quý 1/2025 cho thấy đà phục hồi vững chắc, nổi bật là tốc độ tăng trưởng GDP đạt 6,93%, cao nhất trong quý đầu tiên của giai đoạn 2020-2025. Sự tăng trưởng mạnh mẽ này được thúc đẩy bởi tăng trưởng cân bằng giữa nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ, trong đó các ngành công nghiệp và dịch vụ chiếm hơn 93% tổng giá trị gia tăng. Đáng chú ý, các ngành sản xuất và chế biến tiếp tục đóng vai trò là động lực tăng trưởng chính. Ngành thực phẩm và đồ uống (F&B) được hưởng lợi đáng kể từ sự phục hồi kinh tế này , khi niềm tin và nhu cầu của người tiêu dùng tăng cao thúc đẩy tăng trưởng.
Ngành mía đường Việt Nam lao đao vì tồn kho, rớt giá

Ngành mía đường Việt Nam lao đao vì tồn kho, rớt giá

Ngành mía đường Việt Nam đang trải qua giai đoạn gian nan nhất trong vòng một thập kỷ qua. Giá đường lao dốc, tồn kho chạm đỉnh, trong khi áp lực cạnh tranh từ đường nhập khẩu và hàng lậu ngày càng gay gắt. Trước những “cơn sóng dữ” này, chỉ những giải pháp ngắn hạn như hỗ trợ giá hay siết nhập khẩu là chưa đủ, ngành mía đường cần được tiếp sức bằng một chiến lược phát triển bền vững, dài hạn và toàn diện.