Bàn giải pháp vực dậy nền kinh tế
Ngành Ngân hàng đồng hành với nền kinh tế | |
Đại dịch Covid-19 cho thấy sức chống chịu của nền kinh tế đã gia tăng | |
Vừa thực hiện giãn cách xã hội, vừa tạo điều kiện phát triển sản xuất kinh doanh |
TS.Nguyễn Đình Cung - Thành viên Tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng:
Nền kinh tế đã chuyển sang một trạng thái rất khác
TS.Nguyễn Đình Cung |
Đại dịch Covid-19 đã khiến đất nước đang ở giai đoạn rất khó khăn. Năm nay, dự báo tăng trưởng kinh tế đạt thấp hơn nhiều so với kế hoạch. Thu ngân sách sẽ giảm, chi ngân sách tăng, nhất là tăng chi cho phòng, chống dịch, chi an sinh xã hội, chi hỗ trợ DN, hộ kinh doanh... Các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô khác như lạm phát, lao động và công ăn việc làm, cung tiền, tín dụng và lãi suất, tỷ giá, nợ xấu, cán cân thanh toán và dự trữ ngoại hối... sẽ thay đổi so với kế hoạch mà đầu năm dự kiến.
Dù hiện dịch bệnh trong nước đang được kiểm soát tốt, nhưng sang quý II, tác động của đại dịch với nền kinh tế nước ta sẽ còn nghiêm trọng hơn, các tác động về xã hội sẽ bộc lộ rõ ràng hơn. Phần lớn các DN, hộ kinh doanh thu hẹp sản xuất. Có thể có tới hàng trăm ngàn DN và hộ kinh doanh vẫn đóng cửa tạm thời hoặc sẽ giải thể. Hàng triệu người có thể mất việc hoặc không có đủ việc làm, thu nhập giảm đáng kể, đời sống trở nên khó khăn hơn. Một số người có thể rơi vào tình trạng tái nghèo…
Do dịch bệnh, phản ứng chính sách của Chính phủ cũng đã có những thay đổi căn bản và đã có chuyển hướng rõ nét. Chính phủ đã ưu tiên chống dịch, bảo vệ sinh mạng người dân đồng thời thực hiện các gói hỗ trợ sản xuất kinh doanh để tăng cường sức chống chịu của DN cùng với gói hỗ trợ an sinh xã hội, hỗ trợ, cứu trợ người lao động thất nghiệp và nhóm người thu nhập thấp, dễ bị tổn thương... Đồng thời tiếp tục duy trì ổn định kinh tế vĩ mô và duy trì tăng trưởng ở mức hợp lý, từ đó để ổn định tâm lý và thu phục niềm tin thị trường, người tiêu dùng.
Cộng đồng DN và người dân đã đánh giá cao các gói giải pháp đang thực hiện, các gói này khá toàn diện, kịp thời và hợp lý. Nhưng số lượng các giải pháp, quy mô các gói hỗ trợ về tiền tệ và tài khóa, thời hạn áp dụng các gói nói trên được xây dựng trên giả thiết là dịch Covid-19 sẽ được kiểm soát ở trong nước, và từ quý II sẽ tuyên bố hết dịch. Nhưng đến nay đại dịch này kéo dài đến bao lâu chưa biết. Vì vậy, để sớm phục hồi nền kinh tế, để củng cố sức lực cho DN, để chuẩn bị cho cơ hội bật dậy của nền kinh tế trên toàn cầu sau đại dịch, thì Miễn và Giảm là 2 từ cần dùng nhiều hơn vào lúc này.
Theo đó, chúng ta có thể chủ động chia thành 3 giai đoạn để có giải pháp ứng phó tương ứng. Giai đoạn 1 cho đến hết quý II là giai đoạn kiềm chế, kiểm soát và chống dịch bệnh như hiện nay. Giai đoạn 2 là thời gian hết dịch bệnh ở trong nước, nhưng trên thế giới vẫn còn và chưa có vaccine chống, nguy cơ xâm nhập virus từ bên ngoài vẫn còn. Giai đoạn 3 là thời kỳ hết dịch bệnh trên toàn thế giới.
Nếu Việt Nam tuyên bố hết dịch từ đầu quý III, thì cần gia hạn thực hiện các gói hỗ trợ thêm một thời gian phù hợp có thể là 6 tháng, là kéo dài sang năm 2021 để gia tăng sức lực của DN, để phục hồi sản xuất, trước hết phục vụ nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu tối đa có thể.
Nếu dịch bệnh tiếp tục kéo dài hơn dự tính, thì vừa kéo dài gói hỗ trợ vừa cần tăng thêm số lượng, quy mô các gói hỗ trợ để giúp phần lớn DN chống chọi, vượt qua được đại dịch và góp phần phục hồi và tái thiết nhanh nền kinh tế sau đại dịch. Không chỉ là giãn thời gian mà miễn, giảm các khoản phải nộp của DN với thời gian đủ dài để DN có tích lũy.
Lúc này cầu trong nước còn yếu, nhất là cầu từ khu vực DN, thì cần áp dụng tình huống đặc biệt hay cấp bách thực hiện chương trình đầu tư công với quy mô hợp lý. Đồng thời cần hành động ngay để không bỏ lỡ cơ hội mới từ các chuyển dịch của kinh tế thế giới sau đại dịch. Nên sớm đánh giá và hoàn thiện các chương trình cơ cấu lại nền kinh tế, gắn với chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế phù hợp với yêu cầu và điều kiện mới sau đại dịch. Nên xây dựng kế hoạch phục hồi, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng trong điều kiện mới sau đại dịch Covid-19.
TS.Trần Đình Thiên - Thành viên Tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng:
Đây là lúc ngân sách nhà nước phải chi để “nuôi” nền kinh tế
TS.Trần Đình Thiên |
Chúng ta chủ động chống dịch triệt để, nên các chuỗi sản xuất, cung - cầu trong nước bị ảnh hưởng, tích hợp với chuỗi cung - cầu thế giới bị chia cắt khiến nền kinh tế đã gần như ngưng lại. Tuy nhiên để phục hồi nền kinh tế, để sản xuất kinh doanh đứng dậy, thì phải đánh giá cho đúng sức chống chịu của nền kinh tế, sức chống chịu của ngân sách, sức chống chịu của DN và cả của người dân để có những phương án, kịch bản phù hợp. Chúng ta đã chống dịch tốt. Nhưng thử thách chính yếu dường như vẫn đang ở phía trước trong khi sức lực đã có phần hao tổn.
Hiện tại, DN gặp khó vì đứt gãy cả cung và cầu, giải pháp tiền tệ chỉ giải quyết tình thế bức bách, chứ không giải quyết các vấn đề về sản xuất, kinh doanh của DN. Câu hỏi phải trả lời là nếu DN không hoạt động, thì sức chống chịu được bao lâu, 3 tháng, 6 tháng hay 1 năm, để từ đó có sự hỗ trợ. Nhưng chính lúc này cũng phải xem đến sức chống chịu của ngân sách. Ngân sách cho hoãn được đến bao lâu, có thể cho miễn được không? Nếu miễn thì sẽ có cách nào để bù lại, vì còn có những khoản cần chi tiêu khác.
Đây là lúc ngân sách nhà nước phải chi để “nuôi” cả nền kinh tế. Nhưng ngân sách đang rất yếu. Trước khi dịch bệnh bùng lên thì cũng đã “chịu đau” để bảo vệ xã hội khi cả nước thực hiện lệnh cấm uống rượu khi lái xe khiến nguồn thu từ sản xuất, tiêu thụ rượu bia giảm nhiều. Hiện ngân sách cũng đang và sẽ phải chi những khoản mang tính “quyết tử” như các khoản chi chống dịch… Trong bối cảnh nguồn thu giảm mạnh do DN khó khăn, Chính phủ lại đang thực hiện các giải pháp giãn thuế nên chưa có nguồn thu vào, nhưng các khoản chi chống dịch thì không thể dừng lại được. Chưa kể ngân sách cũng còn phải chi để chống hạn mặn ở Đồng bằng sông Cửu Long… Như vậy ngân sách sẽ còn khó khăn ít nhất là cho đến cuối năm khi các khoản giãn thuế được nộp trở lại.
Trong khi đó, có những tình thế không thể kiểm soát được, khó đoán và bất định như chưa biết bao giờ thế giới hết dịch. Trước những khó khăn đó, phải lường tính mọi việc, tìm ra giải pháp đúng. Các chính sách lúc này phải nương theo xu hướng thế giới, khu vực và cả trong nước để tính toán từng bước... Chính phủ đang hành động theo cách đó, đang chứng minh khá thuyết phục năng lực điều hành vĩ mô trong trận chiến chống Covid-19.
Nói về tái thiết nền kinh tế, phục hồi tăng trưởng sau đại dịch, tôi muốn nhắc đến lý thuyết chi tiêu nghịch chu kỳ: Khi nền kinh tế tốt, chi tiêu công ít, dành đất cho khu vực tư nhân. Khi nền kinh tế yếu, khu vực tư nhân khó khăn, thì ngân sách phải chi ra, đầu tư công phải trở thành động lực. 700.000 tỷ đồng tiền ngân sách dành cho đầu tư công năm nay sẽ “nuôi” cả nền kinh tế. Dòng tiền này bơm ra từ đầu tư công sẽ tạo nguồn cung - cầu cho hoạt động của các DN, trong đó có khu vực DN tư nhân.
Nhưng vấn đề là đầu tư công đang rất trì trệ và khả năng sẽ còn trì trệ nếu không vượt qua những quy định đang cài răng lược, cản trở nhau hiện nay. Không phải vì có Covid-19, chúng ta mới nói đến yêu cầu này, mà vì nó, chúng ta càng thấy rõ nếu không thay đổi, thì cách làm cũ đang giết chết nền kinh tế.
Lúc này cả nền kinh tế đang ở tình trạng không bình thường thì cũng cần đến những biện pháp không bình thường để thúc đầu tư công. Theo đó phải có những giải pháp theo kiểu cắt bỏ quá khứ, bỏ các quy định hành chính để các dự án hạ tầng, kết nối đã có vốn, chỉ đợi thủ tục là có thể triển khai được ngay. Tất nhiên, bỏ qua những quy trình, nguyên tắc cũ không có nghĩa là vô nguyên tắc, mà phải đưa quy trình, thủ tục khác để phê duyệt, phải đơn giản, rõ ràng và tính chịu trách nhiệm cao hơn. Đầu tư công cũng cần mở cửa cho khu vực tư nhân tham gia.
Thủ tướng Chính phủ đã nói, đây là cơ hội để đẩy mạnh cải cách. Tôi tin đây là thông điệp quan trọng. Những điều đã nói trên chính là cải cách đấy.
Duy trì sản xuất kinh doanh, giúp doanh nghiệp trụ được để nền kinh tế có thể vượt qua đại dịch |
Ông Nguyễn Đức Hùng Linh - Chuyên gia kinh tế:
Sự hồi phục của nền kinh tế và mô hình chữ V
Ông Nguyễn Đức Hùng Linh |
Dựa trên 2 biến số cơ bản là diễn biến dịch bệnh và năng lực ứng phó, hồi phục hậu Corona của kinh tế Việt Nam có thể theo hình chữ V, U, L hoặc W (theo biểu đồ trang bên). Khi kết hợp với các phân tích lịch sử (các đợt khủng hoảng 2008-2009; 2011-2012 và 1 đợt suy thoái nhẹ 2016-2017), xác suất xảy ra cao nhất cho kinh tế Việt Nam là mô hình hồi phục hình chữ V với các điều kiện xảy ra như sau: Dịch sẽ kết thúc trong quý II; Các biện pháp kích thích kinh tế mang lại hiệu quả tốt; Cải cách thể chế diễn ra mạnh mẽ trong năm 2020; Kinh tế thế giới hồi phục nhanh sau dịch.
Lý do để nhận định như vậy vì một mặt, xác suất dịch bệnh kết thúc trong mùa hè là tương đối cao. Trên thực tế, các dịch cúm trước đây cũng thường kết thúc vào mùa hè. Mặt khác, Chính phủ đang cho thấy quyết tâm thúc đẩy tăng trưởng với các giải pháp hợp lý (thúc đẩy đầu tư công; hỗ trợ DN, người lao động; hỗ trợ người yếu thế…). Ngoài ra từ phía khách quan, năng lực kích thích kinh tế mạnh mẽ của Mỹ, các nước Tây Âu và Trung Quốc sẽ giúp kinh tế thế giới hồi phục nhanh sau dịch.
Dù xác suất mô hình chữ V là cao nhất nhưng không hẳn nổi trội so với các mô hình khác, có thể đặt xác suất theo thứ tự là 35-25-25-15 cho mô hình V, U, L và W. Sự hồi phục thậm chí cũng không hoàn toàn giống bất cứ mô hình nào trong 4 mô hình này do dịch bệnh rất khó nói trước và sức khỏe hệ thống ngân hàng thế giới cũng chưa được đánh giá cụ thể. Và ngay cả khi dịch kết thúc đúng dự báo thì những nhân tố khác như bầu cử, tranh chấp thương mại, thay đổi chiến lược đầu tư FDI… cũng sẽ ảnh hưởng đến tốc độ hồi phục.
Theo mô hình chữ V, kinh tế Việt Nam và thế giới sẽ xuống đáy trong quý II với mức suy giảm cực lớn vì độ cộng hưởng toàn cầu. Nhưng khi dịch bệnh được kiểm soát trong mùa hè và các biện pháp kích thích kinh tế mang lại hiệu quả, tăng trưởng sẽ hồi phục trong quý III và nhanh hơn trong quý IV. Sang nửa đầu năm 2021, tăng trưởng sẽ rất cao do nền thấp cùng kỳ 2020. Từ nửa cuối 2021, tăng trưởng sẽ trở lại quỹ đạo ổn định.
Từ số liệu đóng góp và tăng trưởng của các ngành trong quý I có thể thấy, 6 ngành lớn nhất trong GDP (chiếm 57% GDP, bao gồm: công nghiệp chế biến chế tạo; nông nghiệp; bán buôn bán lẻ; xây dựng; tài chính - ngân hàng, bảo hiểm; khai khoáng) sẽ giảm tốc mạnh hoặc tăng trưởng âm trong quý II/2020. Tuy nhiên, điểm tích cực là nếu so với giai đoạn khủng hoảng 2009 và 2012, Việt Nam đang có nhiều lợi thế hơn. Ba điểm thuận lợi nổi lên là: Dư địa tài khóa và tiền tệ tốt hơn (hay nói nôm na là chúng ta đang “rủng rỉnh tiền bạc” hơn và tăng trưởng kinh tế của thế giới cũng như Việt Nam đều đang trên đà tốt trước khi nổ ra dịch bệnh); lạm phát đang thấp và chắc chắn cả năm 2020 sẽ tăng thấp; động lực tăng trưởng đã chuyển sang khu vực FDI và tư nhân.
Thuận lợi lớn nhưng khó khăn cũng nhiều hơn so với trước đây. Trong đó, khó khăn lớn nhất là độ mở của nền kinh tế ngày càng lớn, tức là những cú sốc từ bên ngoài sẽ có ảnh hưởng lớn hơn nhiều so với trước đây. Nói cách khác, việc ứng phó với dịch bệnh trong năm 2020 sẽ rất khác với đợt khủng hoảng 2008-2009 (sau đó hồi phục hình chữ V); khủng hoảng 2011-2012 (sau đó hồi phục hình chữ L) và 1 đợt suy thoái nhẹ 2016-2017 (sau đó hồi phục hình chữ W). Vì vậy, trong mô hình dự báo hậu Corona, những nguyên nhân/điều kiện khách quan và chủ quan đều phải được tính đến.
Câu hỏi là làm thế nào để thúc đẩy tăng trưởng khi dịch bệnh tiếp tục hoành hành, nền kinh tế phải chấp nhận “sống chung với dịch bệnh”?. Trong quý II năm nay, dù có làm gì cũng không thể kéo được tăng trưởng. Nhưng những gì làm được trong quý II sẽ giúp hồi phục nhanh hơn trong nửa cuối năm và tăng tốc những năm tiếp theo.
Những việc có thể làm và cần làm: Thúc đẩy đầu tư công, tập trung vào các dự án hạ tầng trọng điểm có sức lan tỏa cao, nhất là trong khu vực phía Nam; Tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, xử lý các ngân hàng yếu kém để chặn đua lãi suất, đây là tiền đề cho giảm lãi suất một cách lâu dài; Phát triển kinh tế tư nhân, hỗ trợ các tập đoàn tư nhân có sức cạnh tranh mạnh, tạo dựng 30 “con sếu lớn” làm đầu tàu kéo tăng trưởng; Sửa đổi Luật Đất đai, dỡ bỏ hạn điền, giải phóng hoàn toàn ngành nông nghiệp; Bảo hộ sản xuất trong nước, khuyến khích tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ trong nước, trong khi có các giải pháp giảm nhập siêu…
Ông Nguyễn Hoài Nam - Phó Tổng thư ký VASEP:
Để doanh nghiệp hồi phục nhanh từ trong dịch bệnh
Ông Nguyễn Hoài Nam |
Diễn biến dịch bệnh Covid-19 trên thế giới còn đang rất phức tạp và di chứng của đại dịch là nặng nề và lâu dài. Dự báo trong vài tháng tới, xuất khẩu chắc chắn tiếp tục bị tác động giảm. DN chưa thể thoát khỏi tình trạng bị sụt giảm, hoãn/hủy đơn hàng, vận tải hàng hóa khó khăn, việc thanh toán cũng không thuận lợi. Sẽ có không ít DN nhất là những DN nhỏ khó trụ vững.
Đến nay, tỷ lệ các đơn hàng của các DN chế biến xuất khẩu thủy sản vẫn được giao theo hợp đồng đã ký chỉ chiếm 30-50%. Tỷ lệ đơn hàng bị hoãn, dừng hoặc hủy khá cao, lên tới 20%, 30% thậm chí tới 40%, Việc ký kết các đơn hàng mới cũng rất khó khăn, nhiều DN gần như không có các đơn hàng mới trong quý II, III/2020.
Dù ngay từ tháng 3 Chính phủ đã khẩn trương đưa ra giải pháp hỗ trợ sản xuất kinh doanh và những gói hỗ trợ chưa có trong tiền lệ. Nhưng đến nay, có những chính sách DN chưa “hưởng” được, có những chính sách được thực hiện không đồng đều.
Theo phản ánh, rất nhiều DN không “hưởng được” chính sách tạm dừng đóng vào quỹ hưu trí, tử tuất vì không thể đạt được tiêu chí 50% số lao động nghỉ việc. Cũng không có tiêu chí rõ ràng để xác định thiệt hại 50% tổng số giá trị tài sản do dịch bệnh. Hơn nữa, nếu 50% lao động nghỉ việc hoặc thiệt hại 50% tổng số giá trị tài sản thì DN đã “chết lâm sàng”, đã cận kề phá sản. Với chính sách gia hạn thời gian nộp thuế thì nhiều DN hoặc đã nộp thuế trước khi chính sách được ban hành hoặc một số DN không phát sinh nộp thuế trong giai đoạn này...
Bởi vậy để phục hồi được sản xuất và xuất khẩu, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phục hồi nhanh, DN kiến nghị được miễn nộp kinh phí công đoàn năm 2020, dừng việc đóng BHXH đến cuối năm 2020 và không tính lãi chậm nộp; dùng tiền kết dư của Quỹ BHXH, bảo hiểm thất nghiệp hỗ trợ 50% tiền lương ngừng việc cho người lao động, 50% còn lại DN tự lo, dùng quỹ này cho DN vay không lấy lãi để chi trả các chi phí cho người lao động. DN cũng mong Chính phủ đề nghị Quốc hội thông qua việc giảm tỷ lệ đóng của người sử dụng lao động và người lao động vào quỹ bảo hiểm thất nghiệp 1% xuống 0,5% và tạm dừng đóng quỹ hưu trí tử tuất theo số nhân viên bị ngừng việc thực tế.
Về lương của người lao động, đề nghị Quốc hội và Chính phủ cho phép các DN được lựa chọn 1 trong 2 giải pháp: người lao động chấp nhận mức lương thấp hơn mức lương tối thiểu vùng do hai bên thỏa thuận; hoặc áp dụng ngay Điều 99 của Bộ luật Lao động 2019: Trong trường hợp ngừng việc do dịch bệnh, thì 14 ngày đầu tiên không thấp hơn mức lương tối thiểu vùng, từ ngày 15 trở đi theo mức lương do 2 bên thỏa thuận.
Với chính sách tiền tệ, hiện kho lạnh trữ hàng là một mắt xích quan trọng và có tính chiến lược đối với các chuỗi sản xuất tiêu thụ nông - thuỷ sản. Tuy nhiên đang thiếu trầm trọng kho lạnh khiến các DN không thể thu mua được hơn nguồn nguyên liệu tôm, cá mà bà con nông - ngư dân sản xuất ra, cũng như khó có thể tạo ra được nguồn hàng lớn chủ động khi thế giới có nhu cầu lớn trở lại. Vì vậy đề nghị ngành Ngân hàng cho vay hỗ trợ lãi suất 0% trong 2 năm đầu và giảm lãi suất 50% trong 4 năm tiếp theo đối với các khoản cho vay dài hạn để đầu tư xây dựng kho lạnh trữ hàng lớn với các kho lạnh có công suất tối thiểu là 5.000 pallet trở lên.
Ông Nguyễn Hải Minh - Phó Chủ tịch Hiệp hội DN châu Âu tại Việt Nam (EuroCham):
Sẵn sàng để khai thác tốt các lợi ích từ EVFTA
Ông Nguyễn Hải Minh |
Khi EVFTA và EVIPA có hiệu lực chắc chắn đầu tư và thương mại giữa EU và Việt Nam sau sẽ tăng lên. Không chỉ kim ngạch xuất nhập khẩu song phương tăng, mà đầu tư nước ngoài từ châu Âu và đầu tư từ các nước thứ ba vào Việt Nam để tận dụng lợi thế về thuế suất cũng sẽ tăng lên. Đặc biệt, dịch Covid-19 hiện nay cũng góp phần đẩy nhanh mức độ dịch chuyển sản xuất từ Trung Quốc sang Việt Nam.
Một trong những ý nghĩa quan trọng là EVFTA giúp cho các DN Việt Nam, đặc biệt là các DNNVV có khả năng tham gia vào chuỗi giá trị do các DN châu Âu đang dẫn dắt. Về mặt logic là như vậy. Nhưng để tham gia vào chuỗi thì không phải là câu chuyện ngày một, ngày hai có thể diễn ra ngay được mà sẽ diễn ra dần dần. Tức là sẽ phải mất một thời gian nữa để thúc đẩy. Còn việc đứt gãy chuỗi cung ứng do dịch Covid-19 gây ra hiện nay, theo tôi, chỉ diễn ra trong thời gian ngắn và sẽ rất nhanh chóng được khôi phục trong thời gian tới khi các thị trường sớm mở cửa trở lại. Nên đây sẽ không phải là vấn đề lớn, dù sức cầu giảm có thể sẽ kéo dài hơn.
Nhìn vào báo cáo Chỉ số Môi trường Kinh doanh (BCI) quý I/2020 của EuroCham công bố gần đây, mức 26 điểm mà báo cáo ghi nhận là mức thấp nhất từ trước đến nay và phản ánh mức độ khá tiêu cực. Thế nhưng nguyên nhân chủ yếu nhất là do quan ngại vì đại dịch Covid-19. Còn khi nhìn sâu vào các vấn đề và câu hỏi khảo sát cụ thể, các DN châu Âu cho biết họ vẫn cố gắng trụ vững được, cả về mặt dòng tiền, thanh khoản hay nỗ lực giữ được người lao động.
Điều đó cho thấy, mặc dù các DN chắc chắn chịu nhiều áp lực về mặt kinh doanh, bị thiệt hại và ảnh hưởng lớn liên quan đến thị trường do tác động của Covid-19 thế nhưng họ vẫn kỳ vọng triển vọng kinh doanh sẽ tích cực trong thời gian tới. Do đó, nếu các cải cách hành chính tiếp tục được thúc đẩy tạo ra môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi, linh hoạt và cởi mở hơn thì Việt Nam chắc chắn sẽ tiếp tục thu hút được đầu tư nước ngoài, đặc biệt là từ các DN châu Âu, tiếp tục giúp tạo ra sức bật và đột phá trong mở rộng đầu tư hay đầu tư mới.
Bên cạnh đó, cơ sở hạ tầng của Việt Nam cũng đang còn rất nhiều vấn đề khiến chi phí logistics rất cao. Đây là yếu tố mà Việt Nam cần tập trung cải thiện. Quy hoạch và triển khai quy hoạch về giao thông, về hạ tầng kho bãi… vì vậy cần được thúc đẩy mạnh để đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế thời gian tới.
Ngoài ra, một vấn đề mà EuroCham chúng tôi cho rằng đóng vai trò quan trọng không kém là khả năng đáp ứng nguồn nhân lực chất lượng cao. Bởi cần hình dung trong thời gian tới, khi các DN châu Âu đẩy mạnh sản xuất ở Việt Nam nhiều hơn và họ sản xuất dựa rất nhiều vào các dây chuyền công nghệ cao nên sẽ rất cần nguồn lao động có kỹ năng cao và lành nghề. Chính vì vậy mà EuroCham đề xuất cần tăng cao hợp tác công tư trong lĩnh vực đào tạo, dạy nghề; cần có cơ chế ưu đãi hơn cho các DN để họ đầu tư tham gia cùng Nhà nước trong các hoạt động đào tạo nghề này.