Chỉ số kinh tế:
Ngày 11/12/2025, tỷ giá trung tâm của VND với USD là 25.154 đồng/USD, tỷ giá USD tại Cục Quản lý ngoại hối là 23.947/26.361 đồng/USD. Tháng 11/2025, Sản xuất công nghiệp tiếp tục phục hồi, IIP tăng 2,3% so với tháng trước và 10,8% so với cùng kỳ; lao động trong doanh nghiệp công nghiệp tăng 1%. Cả nước có 15,1 nghìn doanh nghiệp thành lập mới, 9,7 nghìn doanh nghiệp quay lại, trong khi số doanh nghiệp tạm ngừng, chờ giải thể và giải thể lần lượt là 4.859; 6.668 và 4.022. Đầu tư công ước đạt 97,5 nghìn tỷ đồng; vốn FDI đăng ký 33,69 tỷ USD, thực hiện 23,6 tỷ USD; đầu tư ra nước ngoài đạt 1,1 tỷ USD. Thu ngân sách 201,5 nghìn tỷ đồng, chi 213,3 nghìn tỷ đồng. Tổng bán lẻ và dịch vụ tiêu dùng đạt 601,2 nghìn tỷ đồng, tăng 7,1%. Xuất nhập khẩu đạt 77,06 tỷ USD, xuất siêu 1,09 tỷ USD. CPI tăng 0,45%. Vận tải hành khách đạt 565,7 triệu lượt, hàng hóa 278,6 triệu tấn; khách quốc tế gần 1,98 triệu lượt, tăng 14,2%.
dai-hoi-cong-doan

Điều hành chính sách tiền tệ góp phần an dân

Hà Thành thực hiện
Hà Thành thực hiện  - 
Điều hành chính sách tiền tệ (CSTT) là một trong những điểm sáng nhất trong bức tranh kinh tế năm 2021. Không chỉ kiểm soát lạm phát ở mức thấp, hỗ trợ nền kinh tế phục hồi, mà CSTT còn góp phần quan trọng vào công tác “an dân” trong bối cảnh đại dịch.
aa

TS. Lê Xuân Nghĩa – nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia đã nhận định như vậy khi nhìn lại năm 2021 đầy biến động đối với nền kinh tế Việt Nam do chịu tác động mạnh từ dịch bệnh Covid.

dieu hanh chinh sach tien te gop phan an dan
TS. Lê Xuân Nghĩa – nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia

Theo ông, đâu là điểm nhấn trong điều hành CSTT của NHNN trong năm qua?

Có thể nói trong bối cảnh kinh tế suy giảm nghiêm trọng, dịch bệnh tàn phá khủng khiếp, nhưng NHNN đã duy trì CSTT ổn định góp phần đắc lực ổn định kinh tế vĩ mô, đồng thời tích cực tham gia cuộc chiến chống đại dịch, góp phần an lòng dân. Theo đó, NHNN có hành động chính sách kịp thời, sát diễn biến thị trường trong hỗ trợ cho các doanh nghiệp vượt qua khó khăn của dịch bệnh. Chính sách nổi bật là NHNN đã sửa đổi Thông tư số 01/2020/TT-NHNN quy định về việc TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ nhằm giúp doanh nghiệp giảm bớt gánh nặng nợ nần, cầm cự trong giai đoạn khó khăn. Ngay sau dịch bệnh dần kiểm soát, khi các cơ hội sản xuất kinh doanh dần mở ra, NHNN tiếp tục giảm lãi suất điều hành, hỗ trợ các NHTM giảm chi phí vốn để có điều kiện tiếp tục cắt giảm lãi suất cho vay. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng đối với doanh nghiệp, nền kinh tế. Việc hạ lãi suất chung cũng như tiếp tục gia tăng các gói tín dụng hỗ trợ của NHTM có ý nghĩa rất quan trọng trong tiến trình dần hồi phục và có thể tạo sức bật cho nền kinh tế.

Sự điều hành đồng bộ, nhịp nhàng các công cụ CSTT cũng đã tạo điều kiện cho các NHTM duy trì hoạt động ổn định, thanh khoản vững chắc hơn. Trước đây, khi thị trường biến động, các NHTM thường gặp khó khăn nhất định trong thanh khoản, nhưng trong hai năm qua, trạng thái thanh khoản được cải thiện rõ rệt, khả năng thanh toán ngắn, dài hạn đều tốt.

Tiếp đà những năm trước, năm 2021, NHNN điều hành tỷ giá tương đối ổn định, phù hợp với diễn biến thị trường và các cân đối vĩ mô. Dự trữ ngoại hối hiện hơn 100 tỷ USD – mức cao kỷ lục cùng với cán cân thanh toán tiếp tục thặng dư sẽ củng cố giá trị đồng VND. Sự tin tưởng giá trị đồng VND được gia tăng là lực hút dòng kiều hối chảy về Việt Nam tiếp tục tăng. Theo công bố của NHNN kiều hối năm 2021 khoảng 12,5 tỷ tăng 10% so với 2020. Đây là nguồn vốn rất quan trọng trong điều kiện khó khăn cần vốn đầu tư.

Ngoài thành công trong điều hành CSTT, năm 2021, hoạt động ngân hàng còn có những điểm tích cực. Đó là tốc độ số hoá trong hoạt động ngân hàng tương đối nhanh. Một số ngân hàng đã hoàn chỉnh được hệ sinh thái số, không chỉ tập trung phát triển các sản phẩm truyền thống tiền gửi, thanh toán mà còn đa dạng nhiều lĩnh vực khác như cho vay, mua bán, đặt hàng… Đây là bước tiến rất quan trọng giúp ngân hàng giữ chân khách hàng, nuôi dưỡng nguồn thu bền vững từ mảng ngân hàng số. Một số hoạt động tích cực khác của NHNN như thanh tra giám sát cũng được duy trì thường xuyên, đặc biệt tập trung giám sát tăng trưởng tín dụng, giám sát về nợ xấu, tuân thủ chuẩn mực Basel...

dieu hanh chinh sach tien te gop phan an dan
Các ngân hàng tích cực miễn giảm lãi suất, phí dịch vụ để hỗ trợ người dân, doanh nghiệp

Bước sang năm 2022, cộng đồng doanh nghiệp, cũng như nền kinh tế trông chờ sự hỗ trợ mạnh mẽ hơn từ phía ngành Ngân hàng. Liệu có tạo sức ép lớn cho hoạt động ngân hàng, thưa ông?

Điều doanh nghiệp, người dân cần thời điểm hiện tại là một gói kích thích đủ lớn để tạo ra sức bật mới cho nền kinh tế, khoảng 10% GDP, tập trung trong ngắn hạn, đặc biệt ưu tiên phục hồi thị trường lao động, đẩy mạnh sản xuất.

Tuy nhiên theo tôi, Chính phủ cần cân nhắc hạn chế việc tham gia của các ngân hàng vào những chính sách có tính chất kích thích nền kinh tế như giảm lãi suất, giãn hoãn nợ… Bởi điều này sẽ tạo ra áp lực rất lớn cho các NHTM trong cả ngắn, trung và dài hạn. Hiện tại, nếu nhìn bề nổi có thể thấy trong năm 2021 lợi nhuận của nhiều ngân hàng tăng trưởng tích cực. Song kết quả này có được một phần nhờ chính sách cho phép giãn hoãn, cơ cấu lại các khoản nợ vay giúp hàng loạt nợ xấu trở thành “không xấu”. Tuy nhiên, sau thời gian cơ cấu, nợ xấu của ngân hàng sẽ tăng mạnh. Hơn thế, ngân hàng cũng là doanh nghiệp, có trách nhiệm lớn lao đảm bảo uy tín với người gửi tiền, với cổ đông, nhà đầu tư.

Vì vậy, tôi cho rằng chúng ta chỉ có thể trông chờ vào CSTT và tài khóa, sự phối hợp khéo léo giữa hai chính sách này. Còn trong trường hợp ngân hàng phải tham gia sâu hơn vào gói hỗ trợ này, cần phải đảm bảo một số nguyên tắc để tránh đi vào vết xe đổ của gói kích thích kinh tế năm 2009. Đó là các doanh nghiệp được vay vốn theo các chuẩn mực tín dụng hiện hành, lãi suất thị trường. Việc hỗ trợ lãi suất sẽ được thực hiện giữa doanh nghiệp và cơ quan tài chính thông qua chính sách thuế.

Tôi cũng lưu ý, gói hỗ trợ tín dụng này phải được thiết kế thận trọng, nằm trong tính toán hạn mức tín dụng hàng năm của NHNN, không làm cho lãi suất thị trường bị méo mó và các chuẩn mực an toàn hệ thống bị đảo lộn. Sự an toàn của các NHTM chính là để ổn định nền kinh tế vĩ mô và uy tín quốc gia.

Phó Thống đốc NHNN Phạm Thanh Hà:

Dư địa CSTT năm 2022 còn phụ thuộc vào những thách thức của ngành Ngân hàng trong thời gian tới. Thực tế cho thấy, lạm phát đang trở thành mối lo ngại trên toàn cầu, NHTW các nước đã bắt đầu thu hẹp lại các biện pháp nới lỏng tiền tệ. Theo thống kê của NHNN, từ đầu năm 2021 đến tháng 12/2021, thế giới đã chứng kiến 93 lượt tăng lãi suất của các NHTW, trong đó riêng từ tháng 9/2021 đến đầu tháng 12/2021 có 50 lượt tăng lãi suất...

Từ những phân tích trên có thể thấy dư địa của CSTT còn rất hẹp. Hệ thống ngân hàng huy động vốn của nền kinh tế rồi cho vay lại nền kinh tế, cho nên việc điều chỉnh giảm lãi suất cũng chỉ giảm đến mức còn đủ thu hút được người gửi tiền. Do vậy, trong điều hành lãi suất, NHNN tiếp tục duy trì ổn định mặt bằng lãi suất và cân đối trong tương quan với lạm phát; tương quan với lợi ích của người gửi tiền. Trong điều kiện cho phép, NHNN có thể thực hiện điều chỉnh giảm lãi suất ở mức độ phù hợp. Ngoài ra, NHNN sẽ tiếp tục đảm bảo thanh khoản cho nền kinh tế nói chung, các chủ thể trong nền kinh tế nói riêng.

Lo ngại lạm phát, nhiều nước trên thế giới bắt đầu thắt chặt CSTT. Với Việt Nam, theo ông, sức ép lạm phát có lớn không và điều hành CSTT theo hướng nào để có thể đạt mục tiêu kép như Chính phủ mong đợi?

Tôi cho rằng, ở Việt Nam chưa có lạm phát cầu kéo (lạm phát do bơm tiền) như nhiều nước khác do không có gói kích cầu nào đáng kể. Trong khi đó NHNN kiểm soát cung tiền, tín dụng khá tốt nên áp lực lạm phát năm tới không lớn.

Sang năm 2022, theo tôi, NHNN tiếp tục duy trì điều hành CSTT ổn định và linh hoạt như trong giai đoạn qua. Bên cạnh đó, tập trung nghiên cứu và hoàn thiện công cụ điều hành CSTT thực chất, mang tính thị trường nhiều hơn.

Hai là NHNN nên giảm bớt liều lượng đối với gói giãn hoãn, đồng thời cho các ngân hàng tăng trích lập dự phòng rủi ro nhiều hơn để dự phòng rủi ro nợ xấu trong tương lai, đưa bảng cân đối tài sản trở về thực chất. Nghiên cứu tiến tới xoá bỏ hạn mức tín dụng phân bổ cho từng NHTM trở thành quản lý hành chính về cung tiền.

Cuối cùng là tập trung vào ổn định lại hệ thống ngân hàng. Hệ thống ngân hàng đang chịu rủi ro rất lớn. Sau 5 năm tái cơ cấu, tổng tài sản, vốn chủ sở hữu của các ngân hàng tăng khá nhanh. Điều này là tốt để tăng năng lực tài chính, hỗ trợ nền kinh tế. Nhưng trong nguồn tài chính đó lại chứa đựng những rủi ro về nợ xấu, thanh khoản trong trung hạn, đặc biệt là vấn đề cho vay chéo, sở hữu chéo chưa được kiểm soát chặt chẽ và đúng mức. Vì vậy, cần củng cố ổn định hệ thống làm nền tảng cho phát triển dài hạn.

Xin trân trọng cảm ơn ông!

Hà Thành thực hiện

Tin liên quan

Tin khác

Dự thảo thay thế Thông tư 32/2024/TT-NHNN: Cơ hội “vẽ lại bản đồ” mạng lưới ngân hàng

Dự thảo thay thế Thông tư 32/2024/TT-NHNN: Cơ hội “vẽ lại bản đồ” mạng lưới ngân hàng

Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đang lấy ý kiến đối với dự thảo Thông tư quy định về mạng lưới hoạt động của ngân hàng thương mại, dự kiến thay thế Thông tư số 32/2024/TT-NHNN ban hành ngày 30/06/2024. Trong bối cảnh khung khổ pháp lý của ngành Ngân hàng đang được rà soát, sửa đổi mạnh mẽ để đồng bộ với Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024, việc xây dựng văn bản thay thế Thông tư 32 được đánh giá là bước đi cần thiết nhằm điều chỉnh những quy định không còn phù hợp và giải quyết những vướng mắc phát sinh trong thực tiễn tổ chức mạng lưới hoạt động của các ngân hàng thương mại.
Từ "bước ngoặt" nâng hạng đến khát vọng tăng trưởng kép: Cần chiến lược dòng vốn cho kỷ nguyên mới

Từ "bước ngoặt" nâng hạng đến khát vọng tăng trưởng kép: Cần chiến lược dòng vốn cho kỷ nguyên mới

Thị trường vốn Việt Nam đang đứng trước một "thời điểm vàng" mang tính lịch sử. Sự kiện FTSE Russell nâng hạng thị trường lên nhóm mới nổi không chỉ là một danh xưng, mà là tín hiệu kích hoạt cho một chu kỳ chuyển mình toàn diện về chất lượng. Trong bối cảnh đó, mục tiêu tăng trưởng GDP hai con số cho năm 2026 không còn là viễn cảnh xa vời mà đang dần hiện hữu nhờ sự cộng hưởng của nội lực vĩ mô và sự sẵn sàng của các định chế tài chính.
Bất động sản dưỡng lão sẽ là mỏ vàng mới nếu Việt Nam kịp thời mở cửa chính sách

Bất động sản dưỡng lão sẽ là mỏ vàng mới nếu Việt Nam kịp thời mở cửa chính sách

Bất động sản dưỡng lão sẽ là “mỏ vàng” mới khi nhu cầu chăm sóc sức khỏe, an dưỡng và sống độc lập của người cao tuổi tăng mạnh. Tuy nhiên, để bứt phá, thị trường cần khung pháp lý rõ ràng và chính sách hỗ trợ, đó là chia sẻ của ông Neil MacGregor – Giám đốc Điều hành Savills Việt Nam với báo giới về vấn đề này.
Tín dụng tiêu dùng tăng tốc: Động lực từ vĩ mô và bài toán quản trị rủi ro

Tín dụng tiêu dùng tăng tốc: Động lực từ vĩ mô và bài toán quản trị rủi ro

Những tháng cuối năm, nhu cầu chi tiêu, mua sắm thường tăng mạnh, kéo theo nhu cầu vay tiêu dùng. Cùng với tín dụng cho sản xuất - kinh doanh, liệu tín dụng tiêu dùng có thể trở thành “điểm tựa” cho tăng trưởng tín dụng chung hay không, và rủi ro nợ xấu sẽ được kiểm soát thế nào khi các ngân hàng tăng tốc giải ngân? Trao đổi với Thời báo Ngân hàng, PGS.TS. Phạm Mạnh Hùng - Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Khoa học Ngân hàng (Học viện Ngân hàng) đã phân tích động lực vĩ mô, cảnh báo rủi ro và gợi ý giải pháp quản trị, minh bạch để vừa thúc đẩy cầu nội địa vừa bảo đảm an toàn hệ thống.
Những biến số nào đang ảnh hưởng tới mục tiêu tăng trưởng và thị trường chứng khoán?

Những biến số nào đang ảnh hưởng tới mục tiêu tăng trưởng và thị trường chứng khoán?

Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam khép lại năm 2025 với tốc độ tăng trưởng ấn tượng và kỳ vọng bước vào chu kỳ phát triển mới, các yếu tố lãi suất, tỷ giá và lạm phát đang được đặt vào tâm điểm quan sát. Từ góc nhìn phân tích kinh tế – tài chính, ông Nguyễn Quang Đạt, Tổng giám đốc Công ty Chứng khoán An Bình (ABS), cho rằng bối cảnh vĩ mô hiện nay vẫn đang tạo dựng nền tảng quan trọng để duy trì đà tăng trưởng, đồng thời củng cố triển vọng tích cực của thị trường trong năm 2026, dù còn một số thách thức không thể xem nhẹ.
Kinh tế xanh – hướng đi chiến lược để tăng sức cạnh tranh

Kinh tế xanh – hướng đi chiến lược để tăng sức cạnh tranh

Trong bối cảnh kinh tế thế giới biến động mạnh vì địa chính trị, năng lượng và biến đổi khí hậu, chuyển đổi xanh đang trở thành hướng đi chiến lược của nhiều quốc gia. Việt Nam nổi lên như một điểm sáng của khu vực với sự bứt tốc trong xe điện, thị trường carbon và triển khai hạ tầng năng lượng sạch – những yếu tố được xem là trụ cột cho năng lực cạnh tranh trong thập kỷ tới.
Từ "lượng" sang "chất" và vai trò trụ cột của ngành quỹ

Từ "lượng" sang "chất" và vai trò trụ cột của ngành quỹ

Thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam đang đứng trước ngưỡng cửa của một giai đoạn mang tính bước ngoặt: chuyển mình từ quy mô sang chất lượng, hướng tới các chuẩn mực quốc tế để đón dòng vốn ngoại hạng sang. Trong bối cảnh đó, Quyết định phê duyệt đề án "Tái cấu trúc nhà đầu tư và phát triển ngành quỹ đầu tư chứng khoán" mới đây của Bộ Tài chính không chỉ là một văn bản chính sách đơn thuần, mà được giới chuyên gia đánh giá như một "bản thiết kế tổng thể" nhằm thay đổi căn bản cách thức huy động và quản lý nguồn vốn trong nền kinh tế. Việc phát triển ngành quỹ lúc này trở thành nhu cầu cấp thiết để kiến tạo sự ổn định và bền vững cho thị trường.
Cần thúc đẩy hơn nữa các động lực đầu tư, tiêu dùng và xuất khẩu

Cần thúc đẩy hơn nữa các động lực đầu tư, tiêu dùng và xuất khẩu

Nền kinh tế tiếp tục duy trì đà phục hồi tích cực. Tuy nhiên, để hoàn thành mục tiêu tăng trưởng năm 2025 và giữ vững ổn định vĩ mô, những tháng cuối năm đòi hỏi các giải pháp điều hành quyết liệt và linh hoạt hơn. Trong cuộc trao đổi với phóng viên, TS. Lê Duy Bình - Giám đốc Economica Việt Nam, phân tích các động lực, rủi ro và triển vọng của nền kinh tế giai đoạn cuối năm.
Triển vọng tích cực của thị trường chứng khoán trong bối cảnh vĩ mô thuận lợi

Triển vọng tích cực của thị trường chứng khoán trong bối cảnh vĩ mô thuận lợi

Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam duy trì đà tăng trưởng ấn tượng và nhiều yếu tố hỗ trợ đang hội tụ, thị trường chứng khoán bước vào giai đoạn tích lũy quanh vùng 1.600 điểm sau khi lập đỉnh lịch sử giữa tháng 10. Với góc nhìn chiến lược, ông Trần Anh Tuấn, CFA, Giám đốc Trung tâm Phân tích, Công ty CP Chứng khoán Dầu khí (PSI) cho rằng, thị trường đang vận động trong vùng tích lũy cần thiết để kiểm định dòng tiền và chuẩn bị cho một chu kỳ tăng trưởng mới. Ông phân tích bối cảnh vĩ mô, diễn biến thị trường, triển vọng cuối năm, kỳ vọng 2026 và chiến lược đầu tư phù hợp trong giai đoạn nhiều cơ hội nhưng kèm theo rung lắc kỹ thuật.
Thị trường chứng khoán tích lũy lành mạnh

Thị trường chứng khoán tích lũy lành mạnh

Trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam năm 2025 đang phục hồi đồng thuận, nhiều chỉ số vĩ mô khởi sắc và các chính sách tài khóa - tiền tệ tiếp tục hỗ trợ hoạt động sản xuất, đầu tư và tiêu dùng, thị trường chứng khoán bước vào giai đoạn tích lũy quanh vùng 1.600 điểm sau một chu kỳ tăng kéo dài từ đầu năm. Với góc nhìn phân tích chiến lược, bà Nguyễn Thị Bảo Trân, Giám đốc Phân tích Khối Vĩ mô và Chiến lược, Công ty CP Chứng khoán Mirae Asset (MAS) cho biết, thị trường đang vận động trong trạng thái lành mạnh, được nâng đỡ bởi nền tảng vĩ mô tích cực, dòng vốn nội trụ cột và kỳ vọng lớn từ lộ trình nới lỏng chính sách toàn cầu.