Bảo hộ sở hữu trí tuệ hiệu quả thúc đẩy chuyển đổi số ở Việt Nam
Hội nhập mạnh mẽ cùng những cải cách kinh tế toàn diện, Việt Nam đã đạt được những thành tựu kinh tế và xã hội quan trọng: tăng trưởng kinh tế cao và được duy trì liên tục ở mức trung bình 7%/năm giai đoạn 1990 - 2010, 6,1%/năm giai đoạn 2011 - 2016 và 7%/năm giai đoạn 2017 – 2019. Tuy nhiên, nền kinh tế đang đối mặt với một loạt thách thức. Đó là đại dịch Covid-19 kéo dài khiến nền kinh tế trì trệ, suy giảm tăng trưởng còn 2,91% (năm 2020) và 2,58% (năm 2021).
Đặc biệt, mô hình kinh tế dựa trên lao động giá rẻ và tài nguyên thiên nhiên đang mất dần lợi thế cạnh tranh. Nguy cơ bị mắc kẹt trong bẫy thu nhập trung bình và nguy cơ già hóa dân số đặt nền kinh tế Việt Nam trước nhiều thách thức và thúc đẩy nhanh việc tìm kiếm mô hình tăng trưởng mới.
Ảnh minh họa |
Nhằm giảm thiểu những rủi ro, thách thức trên, theo TS. Trần Thị Hồng Minh, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế trung ương (CIEM), một định hướng quan trọng là phát huy đổi mới sáng tạo, tăng cường ứng dụng khoa học và công nghệ để tạo động lực mới cho tăng trưởng kinh tế và tăng năng suất lao động.
Định hướng này đòi hỏi phải có những nỗ lực để tăng cường ý thức và hiệu lực bảo vệ sở hữu trí tuệ của cả các cơ quan Chính phủ, doanh nghiệp và người dân.
Đặt trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra mạnh mẽ gắn với chuyển đổi số, để bước cùng thế giới, thực hiện hiệu quả các nội dung cam kết trong các hợp tác quốc tế, kể cả các hiệp định thương mại tự do quan trọng như Hiệp định Đối tác toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) và Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) đều có những nội dung quan trọng về bảo hộ sở hữu trí tuệ, Việt Nam càng cần nỗ lực hơn nữa hoàn thiện khung chính sách, pháp luật về sở hữu trí tuệ và các nội dung liên quan như cạnh tranh, bảo vệ người tiêu dùng…
Nhấn mạnh việc sửa đổi, bổ sung pháp luật về sở hữu trí tuệ không chỉ có ý nghĩa đối với hội nhập quốc tế mà cả đối với công cuộc chuyển đổi số của đất nước. Nền kinh tế số đòi hỏi Nhà nước phải có các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, đặc biệt đối với các sản phẩm hàng hóa được mua bán qua kênh thương mại điện tử, các sản phẩm kỹ thuật số khi mà chúng dễ bị sao chép và phát tán trên Internet. Bởi đối tượng sở hữu trí tuệ có tính sáng tạo, vô hình, dễ bị xâm phạm…
Dù chưa tham gia các hiệp định hợp tác về kinh tế số, nhưng Việt Nam cũng cần suy nghĩ đến việc sửa Luật Sở hữu trí tuệ theo hướng “đón đầu” xu hướng hợp tác quốc tế này để tránh bị động.
Song song với đó, Việt Nam cần lưu tâm đến bảo vệ cân bằng lợi ích giữa chủ quyền sở hữu trí tuệ và lợi ích xã hội, tạo lập môi trường cạnh tranh lành mạnh, phù hợp với thực tiễn của một nền kinh tế đang phát triển. Hơn nữa, các quy định về sở hữu trí tuệ được cải thiện sẽ thúc đẩy sự phát triển các công nghệ của cách mạng công nghiệp 4.0 như blockchain, AI, dữ liệu lớn… TS. Trần Thị Hồng Minh lưu ý.
Qua rà soát, các quy định hiện hành của Việt Nam đã cơ bản phù hợp với các quy định về thực thi quyền theo các điều ước quốc tế. Tuy nhiên, khối doanh nghiệp, các trường đại học và viện nghiên cứu lại chưa có sự quan tâm đúng mức về vấn đề này, thể hiện ở số lượng ít ỏi đơn đăng ký sáng chế và giải pháp hữu ích mỗi năm. Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp vẫn thiếu ý thức bảo hộ nhãn hiệu của mình tại các thị trường quốc tế. Đơn cử như Cà phê Trung Nguyên phải mua lại thương hiệu của mình tại thị trường Mỹ hoặc nhãn hiệu gạo ST25 bị mất tại thị trường Úc, Trưởng Ban Nghiên cứu tổng hợp CIEM Nguyễn Anh Dương dẫn chứng.
Thêm nữa, khi xử lý các tranh chấp phát sinh đối với quyền sở hữu trí tuệ, nhiều vụ việc được xử phạt hành chính, tập trung chủ yếu ở hàng nhái, hàng giả về nhãn hiệu hoặc vi phạm kiểu dáng công nghiệp. Do số tiền xử phạt hành chính tương đối thấp nên chưa đủ sức răn đe thực sự các đối tượng vi phạm Luật Sở hữu trí tuệ. Nếu xử lý hình sự và dân sự lại tương đối tốn kém thời gian và công sức.
Điều này đã làm ảnh hưởng đáng kể đến thời gian, chi phí liên quan đến xử lý tranh chấp dân sự về sở hữu trí tuệ, qua đó làm giảm động lực yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ cho các chủ thể yếu thế (doanh nghiệp nhỏ và vừa, phụ nữ, cá nhân sáng tác...), ông Nguyễn Anh Dương nêu quan điểm.
Để hệ thống sở hữu trí tuệ tại Việt Nam phát triển toàn diện, hiệu quả, thúc đẩy kinh tế tri thức, phát triển bền vững, mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam thuộc nhóm các nước dẫn đầu ASEAN về trình độ sáng tạo, bảo hộ và khai thác quyền sở hữu trí tuệ. Tài sản trí tuệ mới của cá nhân, tổ chức Việt Nam gia tăng cả về số lượng và chất lượng, cải thiện vượt bậc các chỉ số về sở hữu trí tuệ của Việt Nam trong Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu; hiệu quả sử dụng quyền sở hữu trí tuệ được nâng cao và gia tăng đáng kể số lượng sản phẩm có hàm lượng sở hữu trí tuệ cao.
Trên cơ sở đó, đại diện CIEM đề xuất 4 nhóm kiến nghị chính sách khi sửa đổi, bổ sung Luật Sở hữu trí tuệ.
Cụ thể, thứ nhất, cách tiếp cận đối với việc sửa đổi, bổ sung Luật Sở hữu trí tuệ cần hướng tới nội luật hóa sớm hơn và cao hơn so với các cam kết quốc tế để tạo động lực cho doanh nghiệp và thích ứng với môi trường chuyển đổi số. Thứ hai, cần nâng cao năng lực và ý thức bảo hộ sở hữu trí tuệ cho các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân (đặc biệt là ở nước ngoài).
Thứ ba, cần vận dụng cơ chế giải quyết tranh chấp trực tuyến trong việc xử lý dân sự các tranh chấp liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ để giảm chi phí cho doanh nghiệp và cá nhân. Thứ tư, cần đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong quản lý sở hữu trí tuệ. Cần tính đến khả năng hợp nhất một số cơ quan quản lý sở hữu trí tuệ, chia sẻ dữ liệu giữa các cơ quan này.