Các vướng mắc phát sinh từ thực tiễn xử lý tài sản bảo đảm và kiến nghị
Ản minh họa |
Hiện nay, các văn bản quy phạm pháp luật (Bộ luật Dân sự 2005, Luật Các tổ chức tín dụng (TCTD), Luật Đất đai 2003, Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ (đã được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 11/2012/NĐ-CP) đều quy định quyền của bên nhận bảo đảm được xử lý tài sản bảo đảm (TSBĐ) trong trường hợp bên được bảo đảm không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ trả nợ. Tuy nhiên, thực tiễn xử lý TSBĐ đã phát sinh nhiều vướng mắc dẫn đến việc các TCTD hầu như không thể tự xử lý được tài sản nếu không có sự đồng thuận của bên bảo đảm. Cụ thể như sau:
I. Vướng mắc trong việc thu giữ TSBĐ để xử lý:
Đây là vướng mắc chủ yếu, ảnh hưởng lớn nhất tới hoạt động xử lý TSBĐ của các TCTD.
Tại Điều 63 Nghị định 163/2006/NĐ-CP (đã được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 11/2012/NĐ-CP) quy định bên nhận bảo đảm có quyền thu giữ TSBĐ khi bên giữ tài sản không chịu giao TSBĐ nếu quá thời hạn bàn giao trong thông báo về xử lý TSBĐ. Tuy nhiên, thực tế đã cho thấy, nếu không có sự hợp tác, sự tự nguyện của bên bảo đảm trong việc bàn giao tài sản thì mọi nỗ lực tiếp theo của bên nhận bảo đảm đều không thể thực hiện được. Lý do là bên nhận bảo đảm không có quyền cưỡng chế, tịch thu hay kê biên tài sản. Mặt khác, cho dù pháp luật về giao dịch bảo đảm có quy định rằng bên nhận bảo đảm có thể yêu cầu Ủy ban nhân dân có thẩm quyền và công an đảm bảo công tác xử lý TSBĐ nhưng không thực sự được áp dụng hiệu quả trên thực tế vì các đơn vị này cũng chỉ thực hiện các công việc có tính chất “hỗ trợ” chứ không có tính quyết định để buộc bên bảo đảm phải bàn giao tài sản cho TCTD.
Thêm nữa, Điều 301 Bộ luật Dân sự 2015 có quy định: “Người đang giữ TSBĐ có nghĩa vụ giao TSBĐ cho bên nhận bảo đảm để xử lý khi thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 299 của Bộ luật này. Trường hợp người đang giữ tài sản không giao tài sản thì bên nhận bảo đảm có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác”. Do vậy kể từ ngày 01/01/2017, TCTD khi xử lý TSBĐ không được thực hiện thu giữ tài sản mà phải yêu cầu Tòa án giải quyết. Với cơ sở pháp lý như trên, chúng tôi cho rằng nếu không có cơ chế đồng bộ về thủ tục tố tụng rút gọn, quy định này sẽ tạo ra rào cản đối với hoạt động xử lý TSBĐ. Theo đó, các vụ việc giải quyết quan hệ tín dụng sẽ phải thông qua con đường Tòa án trong khi hệ thống Tòa án đang quá tải, thủ tục kéo dài và chưa thực sự hiệu quả (thực tế, hiện để giải quyết một vụ việc từ xét xử đến thi hành án phải mất từ 2-3 năm).
Kiến nghị:
- Ngân hàng nhà nước (NHNN) kiến nghị Chính phủ, Quốc hội xem xét quy định bổ sung thủ tục tố tụng rút gọn để giải quyết tranh chấp tín dụng ngân hàng;
- NHNN kiến nghị ngành Tòa án có giải pháp kiện toàn bộ máy, năng lực của Tòa án nhân dân các cấp để đáp ứng nhu cầu giải quyết tranh chấp của các TCTD.
- NHNN kiến nghị Chính phủ xem xét ban hành Nghị định hướng dẫn việc bên bảo đảm phải bàn giao TSBĐ theo hướng bên thế chấp hoặc người giữ TSBĐ có nghĩa vụ bàn giao TSBĐ vào bất kỳ thời điểm nào kể cả sau khi bên nhận TSBĐ xử lý tài sản, chuyển quyền sở hữu, sử dụng tài sản cho người nhận TSBĐ.
- NHNN, Bộ Tư pháp làm việc với Tòa án tối cao thống nhất đường lối xét xử theo hướng các bên có thể khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết yêu cầu giao tài sản mà không cần giải quyết vụ kiện đòi nợ.
II. Vướng mắc trong việc thực hiện phương thức xử lý tài sản đã thỏa thuận tại Hợp đồng
Điều 59 Nghị định 163/2006/NĐ-CP (đã được sửa đổi, bổ sung bởi Nghị định 11/2012/NĐ-CP) quy định các phương thức xử lý TSBĐ theo thỏa thuận. Tuy nhiên trên thực tế, việc thực hiện đều gặp khó khăn, vướng mắc nhất định, chủ yếu là liên quan đến việc chưa thống nhất hoặc chưa có căn cứ rõ ràng trong quy định pháp luật đối việc xử lý TSBĐ, cụ thể:
1. Trường hợp TCTD tự bán/tự chuyển nhượng tài sản bảo đảm:
Khi thực hiện xử lý TSBĐ là quyền sử dụng đất, TCTD không thể tự thực hiện được việc chuyển nhượng tài sản do các văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất từ chối thực hiện thủ tục đăng ký chuyển quyền sử dụng, sở hữu mà Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất do TCTD thực hiện ký kết, giao dịch.
Kiến nghị:
Bộ Tài nguyên môi trường hướng dẫn các Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thực hiện đăng ký chuyển quyền sở hữu, sử dụng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất khi TCTD xử lý TSBĐ theo thỏa thuận tại Hợp đồng bảo đảm; đồng thời hướng dẫn trình tự, thủ tục đăng ký chuyển quyền sử dụng đất khi TCTD xử lý TSBĐ.
2. Trường hợp TCTD nhận chính tài sản để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm:
a) Vướng mắc về trình tự, thủ tục nhận gán nợ
Trong thực tiễn, khi thực hiện phương thức gán nợ cho TCTD, bên bảo đảm yêu cầu TCTD phải tất toán khoản nợ ngay. Tuy nhiên, theo hướng dẫn của NHNN thì TCTD phải thực hiện thủ tục đăng ký chuyển quyền sở hữu, sử dụng tài sản cho TCTD thì mới hoàn tất thủ tục gán nợ, dẫn đến TCTD không thể xử lý nhanh khoản nợ. Khi thực hiện nhận gán nợ, đăng ký chuyển quyền sở hữu, sử dụng tài sản, TCTD sẽ phải chịu rủi ro nhất định đối với tài sản và bị tính vào đầu tư vào tài sản cố định.Ngoài ra, hiện NHNN cũng chưa có bất kỳ hướng dẫn chính thức nào về trình tự, thủ tục nhận gán nợ.
Kiến nghị:
NHNN cần ban hành hướng dẫn cụ thể về trình tự, thủ tục, hạch toán trong trường hợp TCTD nhận gán nợ, cho phép các TCTD không bắt buộc phải đăng ký chuyển quyền sở hữu, sử dụng tài sản cho TCTD và được áp dụng Điều 132 Luật Các TCTD về việc nắm giữ bất động sản 03 năm để xử lý tài sản.
b) Vướng mắc xử lý nợ xấu thông qua giải pháp chuyển nợ thành vốn góp
Hiện theo quy định của Luật các TCTD, các TCTD bị hạn chế, giới hạn cả về lĩnh vực và tỷ lệ góp vốn, mua cổ phần. Điều này ảnh hưởng lớn tới khả năng xử lý nợ bằng giải pháp chuyển nợ thành vốn góp. Trong khi đó, trên thực tế, đây là một công cụ hữu hiệu để các TCTD có thể xử lý nợ một cách hiệu quả.
Kiến nghị:
NHNN kiến nghị Chính phủ, Quốc hội cho phép áp dụng cơ chế đặc thù đối với trường hợp chuyển nợ thành vốn góp không áp dụng theo quy định tại Điều 103, 129 Luật các TCTD.
3. Trường hợp TCTD xử lý tài sản qua phương thức bán đấu giá:
Hiện nay phương thức bán đấu giá khi xử lý TSBĐ đã được quy định rõ và theo trình tự, thủ tục công khai. Tuy nhiên, việc bán đấu giá tài sản để xử lý nợ còn hạn chế do bên bảo đảm/bên giữ TSBĐ không bàn giao tài sản để bán đấu giá.
Thời gian vừa qua, một số trường hợp tài sản được bán đấu giá trước khi bàn giao, hoặc đã bàn giao về thủ tục pháp lý nhưng không thể bàn giao thực tế… sau khi bán đấu giá, bên thế chấp kiện yêu cầu hủy Hợp đồng bán đấu giá, hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất cấp cho người mua; Bên trúng đấu giá khởi kiện vì không thể bàn giao nhà đã làm thủ tục bán đấu giá phát sinh tranh chấp kéo dài, không có cơ chế buộc Bên thế chấp/Bên giữ TSBĐ giao tài sản cho bên mua.
Kiến nghị:
NHNN làm việc với Bộ Tư pháp và Tòa án tối cao để thống nhất hướng dẫn về việc TCTD được bán đấu giá TSBĐ, không bắt buộc bên nhận bảo đảm phải thực hiện xong thủ tục nhận bàn giao tài sản. Sau khi bán đấu giá, trường hợp bên bảo đảm không giao tài sản thì bên nhận bảo đảm/TCTD hoặc người trúng đấu giá có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết việc giao tài sản bởi việc bán đấu giá tài sản đã được tiến hành công khai, chặt chẽ tuân theo thủ tục do pháp luật quy định.
III. Các vướng mắc xử lý TSBĐ đối với khoản nợ đã bán cho VAMC
1. Tòa án yêu cầu VAMC phải trực tiếp ký Đơn khởi kiện
Khi nộp đơn khởi kiện, một số Tòa án (VD: TAND huyện Đông Anh, Hà Nội) không nhận đơn khởi kiện với lý do bên khởi kiện là VAMC nhưng lại đóng dấu của TCTD là không phù hợp với quy định của pháp luật. Do đó, Tòa án yêu cầu Đơn khởi kiện phải do VAMC đóng dấu mặc dù VAMC đều đã có ủy quyền của VAMC cho TCTD với từng vụ việc (Phần phạm vi ủy quyền có nội dung VAMC ủy quyền cho MB ký, nộp, bổ sung, rút (toàn bộ/một phần) đơn khởi kiện, đơn kháng cáo và các giấy tờ liên quan trong quá trình tham gia tố tụng…).
Kiến nghị:
NHNN làm việc với Tòa án nhân dân tối cao để thống nhất có hướng dẫn chi tiết về trường hợp khi Tổ chức được ủy quyền khởi kiện, thi hành án thì bên được ủy quyền được ký, đóng dấu của đơn vị mình trong Đơn khởi kiện mà không bắt buộc phải yêu cầu bên ủy quyền ký, đóng dấu.
2. Vướng mắc trong việc nhận bổ sung TSBĐ là quyền sử dụng đất
Tại điểm d khoản 2 Điều 174 Luật Đất đai năm 2013 quy định tổ chức kinh tế được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất, cho thuê đất thu tiền thuê đất một lần cho cả thời gian thuê có quyền thế chấp bằng quyền sử dụng đất, tài sản thuộc sở hữu của mình gắn liền với đất tại các TCTD được phép hoạt động tại Việt Nam.
Theo quy định trên thì VAMC (với tư cách là chủ khoản nợ mua từ ngân hàng) không được nhận thế chấp quyền sử dụng đất của tổ chức kinh tế do VAMC không phải là TCTD. Trong trường hợp bên vay/bên thế chấp là tổ chức kinh tế bổ sung TSBĐ là quyền sử dụng đất hoặc có sự thay đổi TSBĐ là quyền sử dụng đất của tổ chức kinh tế (nhập, tách thửa; thay đổi diện tích, số thửa…) thì VAMC không được nhận thế chấp quyền sử dụng đất dẫn đến khoản vay trở thành khoản vay không có hoặc thiếu TSBĐ.
Kiến nghị:
NHNN kiến nghị Chính phủ, Quốc hội điều chỉnh hoặc ban hành quy định cho phép VAMC được nhận bảo đảm là quyền sử dụng đất để bảo đảm nghĩa vụ tín dụng đối với các khoản nợ đã mua của TCTD.
3. Vướng mắc về thủ tục xuất hóa đơn, thuế
Đối với các khoản nợ được bán cho VAMC có thời hạn (bằng trái phiếu), VAMC ủy quyền cho ngân hàng xử lý tài sản nhưng pháp luật chưa có quy định rõ ngân hàng có được xuất hóa đơn hay không.
Bên cạnh đó, việc kê khai nộp thuế thu nhập doanh nghiệp trong trường hợp TCTD nhận chính TSBĐ là bất động sản của bên bảo đảm để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ hiện tại chưa có hướng dẫn rõ ràng. Trên thực tế, TCTD/Bên bảo đảm không phát sinh thu nhập từ việc xử lý TSBĐ bằng phương thức gán nợ như trường hợp này.
Kiến nghị:
NHNN làm việc với Bộ Tài chính có văn bản hướng dẫn TCTD được nhận ủy quyền của VAMC được xuất hóa đơn khi bán TSBĐ; và TCTD nhận TSBĐ để giảm trừ nợ thì không phải kê khai nộp thuế TNDN. Khi TCTD chuyển nhượng tài sản thì phải kê khai nộp thuế TNDN từ hoạt động chuyển nhượng BĐS theo quy định pháp luật.
IV. Các vướng mắc xử lý TSBĐ thông qua tố tụng, thi hành án:
- Tòa án không xét xử nếu bị đơn vắng mặt; không thụ lý đối với yêu cầu khởi kiện Bên bảo đảm; yêu cầu các TCTD phải tự xác minh địa chỉ bị đơn.
- Hàng năm ngành Tòa án dừng thụ lý khi tiến hành tổng kết trong khoảng tháng 8, tháng 9, dẫn đến ảnh hưởng đến tiến độ khởi kiện, làm chậm quá trình thu hồi nợ của các TCTD.
- Thủ tục giải quyết xét xử, thi hành án kéo dài, thông thường phải từ 2-3 năm;
- Nhiều bản án tuyên Hợp đồng thế chấp vô hiệu không đảm bảo quyền lợi công bằng của các TCTD. Đặc biệt trong các trường hợp bên thế chấp và chủ tài sản trước đó có giao dịch mua bán/chuyển nhượng tài sản cho nhau không hợp pháp hoặc ủy quyền thế chấp tài sản để vay ké, vay hộ, chưa thanh toán hết tiền mua tài sản… Các trường hợp này, Tòa án đã tuyên Hợp đồng chuyển nhượng, Hợp đồng ủy quyền vô hiệu, kéo theo Hợp đồng thế chấp vô hiệu dẫn đến TCTD mất tài sản bảo đảm, không còn khả năng thu hồi nợ.
- Nhiều trường hợp cơ quan thi hành án trì hoãn việc thi hành án vì cho rằng phải xin ý kiến của các cơ quan cấp trên hoặc hỏi ý kiến Tòa án, đợi giải quyết khiếu kiện, khiếu nại... như trường hợp kê biên đối với BĐS là QSDĐ có tài sản trên đất được tạo dựng sau thời điểm thế chấp; trường hợp nhiều TSBĐ được dùng để bảo đảm cho một nghĩa vụ; trường hợp Bản án của Tòa án đã tuyên ngân hàng được quyền yêu cầu cơ quan thi hành án kê biên phát mại TSBĐ của khách hàng vay và TSBĐ của bên thứ ba nhưng các cơ quan thi hành án lại yêu cầu phải xử lý xong tài sản của bên vay mới xử lý tài sản của bên bảo đảm.
Kiến nghị:
- NHNN làm việc với các cơ quan chức năng trình Quốc hội xem xét quy định bổ sung thủ tục tố tụng rút gọn để giải quyết tranh chấp tín dụng ngân hàng;
- NHNN kiến nghị ngành Tòa án có giải pháp kiện toàn bộ máy, năng lực của Tòa án nhân dân các cấp để đáp ứng nhu cầu giải quyết tranh chấp của các TCTD.
- NHNN kiến nghị cơ quan thi hành án làm việc Tòa án Tối cao thống nhất cơ chế xử lý đối với trường hợp vướng mắc nêu trên.
V. Các vướng mắc phát sinh về chính sách pháp luật khác có nguy cơ rủi ro cho các TCTD liên quan đến xử lý TSBĐ:
1. Vướng mắc về việc kê biên tài sản hình thành từ vốn vay của TCTD để thi hành bản án khác
Luật thi hành án quy định chấp hành viên được kê biên tài sản của người phải thi hành án đang cầm cố thế chấp nếu giá trị TSBĐ lớn hơn tổng nghĩa vụ người thi hành án phải thực hiện. Tuy nhiên, Nghị định 62/2015/NĐ-CP quy định kể từ thời điểm Bản án, quyết định thi hành án có hiệu lực, người được thi hành án không được thế chấp, cầm cố, bán, chuyển nhượng tài sản…
Vướng mắc hiện nay là ngân hàng không thể biết bên cầm cố, thế chấp đang phải thi hành bản án, quyết định của Tòa án. Do đó, hợp đồng bảo đảm và Hợp đồng chuyển nhượng tài sản (mà tài sản này sau đó được sử dụng để cầm cố, thế chấp cho TCTD) ký kết sau thời điểm Bản án, quyết định thi hành án có rủi ro bị vô hiệu, TCTD bị mất TSBĐ nếu cơ quan thi hành án kê biên TSBĐ để thi hành bản án khác. Việc này ảnh hưởng nghiêm trọng tới quyền lợi của các TCTD, đặc biệt là trong trường hợp tài sản bị kê biên là tài sản hình thành từ vốn vay của TCTD.
Kiến nghị:
Quy định tại Nghị định 62/2015/NĐ-CP là trái với quy định của Luật thi hành án. Do đó, đề nghị NHNN làm việc với Bộ Tư pháp để tiến hành kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật, kiến nghị bãi bỏ quy định tại Nghị định 62/2015/NĐ-CP.
2. Vướng mắc đối với trường hợp chủ thể thế chấp không phải là cá nhân, pháp nhân khi sử dụng tài sản của mình để thế chấp kể từ ngày 01/01/2017
Bộ luật Dân sự 2015 có hiệu lực từ ngày 01/01/2017 chỉ điều chỉnh về quan hệ nhân thân, tài sản đối với cá nhân và pháp nhân; các chủ thể khác bắt buộc phải tham gia giao dịch dân sự thông qua cá nhân (Điều 101 Bộ luật Dân sự). Trong khi đó, Luật Doanh nghiệp, Luật Đất đai, Luật Nhà ở, Luật Giao thông đường bộ, các Luật về Thuế và các quy định của NHNN vẫn đang quy định chủ thể bao gồm cá nhân, tổ chức như hộ gia đình, hộ kinh doanh, tổ hợp tác, doanh nghiệp tư nhân… Các chủ thể này cũng là đối tượng được cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản.
Điều này dẫn đến:
- Các Chủ thể khác (không phải là pháp nhân, cá nhân) không được trực tiếp tham gia giao dịch dân sự mà phải thông qua cá nhân. Quy định này không phù hợp với quy định của các Luật khác về các loại chủ thể (Luật Đất đai quy định chủ thể tham gia giao dịch đất đai là cá nhân, hộ gia đình, tổ chức khác; Luật Doanh nghiệp quy định chủ thể bao gồm cả loại hình doanh nghiệp tư nhân, hộ kinh doanh);
- Các giấy tờ chứng minh quyền sở hữu, quyền sử dụng Tài sản đứng tên chủ thể là hộ gia đình, hộ kinh doanh, tổ hợp tác, DN tư nhân… nhưng người ký giao dịch đối với tài sản này là cá nhân thành viên của các chủ thể này. Với việc chủ thể ký Hợp đồng bảo đảm khác với chủ thể đứng tên sở hữu, sử dụng tài sản thì Tòa án có thể sẽ tuyên bố vô hiệu giao dịch (Ví dụ QSDĐ và sở hữu nhà ở đăng ký đứng tên DN tư nhân hoặc xe ô tô đăng ký sở hữu hộ kinh doanh nhưng khi ký Hợp đồng bảo đảm, bên thế chấp không phải là DN tư nhân, Hộ Kinh doanh mà là các cá nhân thành viên của DN tư nhân, Hộ kinh doanh…);
- Các giao dịch tín dụng với ngân hàng: cho vay, bảo lãnh cho DN tư nhân, Hộ kinh doanh… nếu thực hiện thông qua cá nhân thành viên thì sẽ không đúng với mục đích sử dụng vốn là của hộ gia đình, hộ kinh doanh, tổ hợp tác, DN tư nhân và ngân hàng khó kiểm soát mục đích sử dụng vốn. Ngoài ra, các chủ thể này sẽ khó khăn khi ký kết hợp đồng, hạch toán chi phí… do người tham gia giao dịch, ký kết hợp đồng mua hàng hóa không phải là chủ thể bị hạch toán chi phí.
Kiến nghị
Bộ Tư pháp làm việc với Bộ KHĐT, NHNN, các bộ, ngành và Tòa án nhân dân tối cao thống nhất hướng dẫn giải quyết vướng mắc trong hoạt động của các TCTD về Chủ thể hoặc ban hành Luật để điều chỉnh thống nhất các quy định về Chủ thể tham gia giao dịch dân sự.
3. Vướng mắc về việc thế chấp bằng tài sản của người khác
Khoản 2 Điều 4 Thông tư Liên tịch 09/2016/TTLT-BTP-BTNMT hướng dẫn việc đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất quy định: “Việc đăng ký thế chấp quy định tại các Điểm a, b, c, d và đ Khoản 1 Điều này bao gồm các trường hợp đăng ký thế chấp tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự của bên thế chấp hoặc của người khác”.
Tuy nhiên, Bộ luật Dân sự 2015 có hiệu lực từ 01/01/2017 chưa có quy định rõ ràng về biện pháp bảo đảm bằng tài sản của bên thứ ba. Do đó, các TCTD đối mặt với rủi ro mất TSBĐ nếu Tòa án có quan điểm Hợp đồng thế chấp/cầm cố tài sản của bên thứ ba là không đúng quy định của Bộ luật Dân sự và tuyên hợp đồng này vô hiệu.
Kiến nghị:
NHNN làm việc Bộ Tư Pháp và Tòa án nhân dân Tối cao thống nhất đường lối xét xử không coi việc thế chấp/cầm cố bằng tài sản của bên thứ ba là vô hiệu.
4. Vướng mắc về việc tài sản cầm cố, thế chấp tại TCTD bị cầm giữ, bảo lưu quyền sở hữu
Theo quy định của Bộ luật Dân sự 2015 thì bên cầm giữ tài sản chỉ giao lại tài sản cầm giữ khi nghĩa vụ đã được thực hiện; bên bán tài sản có bảo lưu quyền sở hữu có quyền đòi lại tài sản trong trường hợp bên mua không hoàn thành nghĩa vụ thanh toán cho bên bán theo thỏa thuận.
Với quy định này, TSBĐ tại TCTD có nguy cơ rủi ro rất lớn vì những lý do sau:
- Pháp luật thừa nhận giao dịch cầm giữ kể cả trong trường hợp tài sản đã được thế chấp, cầm cố tại TCTD và phát sinh hiệu lực đối kháng với người thứ ba.
- Đối với trường hợp bảo lưu quyền sở hữu, nếu nhà nước không có hệ thống thông tin công khai tình trạng pháp lý tài sản và yêu cầu bắt buộc phải đăng ký công khai về việc bảo lưu quyền sở hữu thì TCTD không thể kiểm soát được TSBĐ có bị bảo lưu quyền sở hữu hay không và phải chịu rủi ro từ việc hợp đồng thế chấp bị vô hiệu, dẫn đến mất TSBĐ.
Kiến nghị:
NHNN kiến nghị Chính phủ, Quốc hội ban hành quy định, hướng dẫn đảm bảo quyền lợi của các TCTD trong trường hợp TSBĐ bị cầm giữ; chỉ đạo cơ quan chức năng xây dựng hệ thống quốc gia để công khai các thông tin về tình trạng pháp lý của tài sản.
5. Thời hiệu khởi kiện đòi nợ gốc
Đối với yêu cầu thanh toán khoản tiền gốc thì từ trước tới nay, Tòa án có quan điểm cho rằng đây là tranh chấp về đòi lại tài sản và không áp dụng thời hiệu khởi kiện. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 155 Bộ luật Dân sự 2015 thì tranh chấp về đòi lại tài sản không còn là một trong các trường hợp không áp dụng thời hiệu khởi kiện nữa. Trường hợp Tòa án có quan điểm áp dụng thời hiệu khởi kiện đối với yêu cầu thanh toán khoản tiền gốc thì rất bất lợi cho các TCTD.
Kiến nghị:
NHNN làm việc Bộ Tư Pháp và Tòa án nhân dân Tối cao thống nhất đường lối xét xử về việc yêu cầu khởi kiện đòi nợ gốc không bị áp dụng thời hiệu khởi kiện.
6. Hệ thống công khai thông tin tài sản
Hoạt động tín dụng của ngân hàng thường gắn với việc nhận cầm cố, thế chấp tài sản. Tuy nhiên:
- Chưa công khai hệ thống thông tin về BĐS (mới có thông tin Giao dịch bảo đảm với Động sản) Chủ Sở hữu, Tình trạng pháp lý, cầm cố, thế chấp, kê biên, thi hành án, hạn chế giao dịch…;
- Đối với Động sản, đã có thông tin về đăng ký giao dịch bảo đảm, kê biên thi hành án nhưng đây là hệ thống đăng ký tự nguyện nên dữ liệu tra cứu chưa đầy đủ.
Vì vậy, các TCTD chưa có dữ liệu tra cứu thông tin tài sản để nhận bảo đảm; khi cần phải xin xác nhận từng trường hợp; nhiều cơ quan nhà đất từ chối cung cấp thông tin… dẫn đến gây khó khăn và rủi ro cho hoạt động ngân hàng khi nhận tài sản bảo đảm do không nắm được toàn bộ thông tin về tình trạng pháp lý tài sản.
Kiến nghị:
- NHNN kiến nghị Chính phủ, Quốc hội chỉ đạo cơ quan chức năng xây dựng hệ thống quốc gia để công khai các thông tin về người phải thi hành án; về tài sản để TCTD xác minh tình trạng tài sản khi nhận thế chấp; đặc biệt là tình trạng bảo lưu quyền sở hữu phải đăng ký công khai và chỉ có hiệu lực khi được đăng ký…;
- NHNN kiến nghị Chính phủ trình Quốc hội ban hành Luật Đăng ký Tài sản, trong đó quy định một Cơ quan nhà nước có thẩm quyền quản lý, công khai dữ liệu đăng ký Tài sản và tình trạng pháp lý tài sản. Trong thời gian chưa ban hành Luật, kiến nghị Chính phủ chỉ đạo Bộ Tư Pháp, Bộ Tài nguyên và Môi trường nhanh chóng xây dựng dữ liệu thông tin quốc gia về tình trạng pháp lý của tài sản (Động sản và Bất động sản), bao gồm lịch sử tham gia giao dịch, tình trạng pháp lý, tình trạng kê biên, thi hành án, hạn chế giao dịch đối với tài sản nhằm đảm bảo an toàn cho các giao dịch dân sự, trong đó có giao dịch Ngân hàng.
Trên đây là một số khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiện quyền xử lý TSBĐ của TCTD và kiến nghị của MB. Kính chuyển quý cơ quan xem xét, tổng hợp để đề xuất, kiến nghị tới các cơ quan nhà nước có thẩm quyền sớm có giải pháp tháo gỡ, giải quyết, hỗ trợ các TCTD trong hoạt động xử lý TSBĐ nói riêng và thu hồi nợ nói chung.