Chỉ số kinh tế:
Ngày 17/12/2025, tỷ giá trung tâm của VND với USD là 25.146 đồng/USD, tỷ giá USD tại Cục Quản lý ngoại hối là 23.934/26.348 đồng/USD. Tháng 11/2025, Sản xuất công nghiệp tiếp tục phục hồi, IIP tăng 2,3% so với tháng trước và 10,8% so với cùng kỳ; lao động trong doanh nghiệp công nghiệp tăng 1%. Cả nước có 15,1 nghìn doanh nghiệp thành lập mới, 9,7 nghìn doanh nghiệp quay lại, trong khi số doanh nghiệp tạm ngừng, chờ giải thể và giải thể lần lượt là 4.859; 6.668 và 4.022. Đầu tư công ước đạt 97,5 nghìn tỷ đồng; vốn FDI đăng ký 33,69 tỷ USD, thực hiện 23,6 tỷ USD; đầu tư ra nước ngoài đạt 1,1 tỷ USD. Thu ngân sách 201,5 nghìn tỷ đồng, chi 213,3 nghìn tỷ đồng. Tổng bán lẻ và dịch vụ tiêu dùng đạt 601,2 nghìn tỷ đồng, tăng 7,1%. Xuất nhập khẩu đạt 77,06 tỷ USD, xuất siêu 1,09 tỷ USD. CPI tăng 0,45%. Vận tải hành khách đạt 565,7 triệu lượt, hàng hóa 278,6 triệu tấn; khách quốc tế gần 1,98 triệu lượt, tăng 14,2%.
dai-hoi-cong-doan

Điểm lại thông tin kinh tế tuần trước kỳ nghỉ lễ 30/4-1/5

P.L
P.L  - 
Tỷ giá trung tâm giảm 18 đồng, chỉ số VN-Index tăng 34,67 điểm so với phiên cuối tuần trước đó hay Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 4 tăng chủ yếu do tác động của giá xăng dầu... là một số thông tin kinh tế đáng chú ý trong tuần từ 22-26/4.
aa
CPI tháng 4/2024 tăng 4,4% so với cùng kỳ năm trước Điểm lại thông tin kinh tế ngày 25/4
Điểm lại thông tin kinh tế
Điểm lại thông tin kinh tế

Tổng quan

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 4 tăng chủ yếu do tác động của giá xăng dầu. Các chuyên gia nhận định, khả năng lạm phát năm 2024 sẽ cao hơn năm 2023, nhưng vẫn trong tầm kiểm soát.

Theo số liệu công bố của Tổng cục Thống kê ngày 29/04, giá xăng dầu tăng theo giá nhiên liệu thế giới là nguyên nhân chính làm chỉ số giá tiêu dùng CPI tháng 4/2024 tăng 0,07% so với tháng trước. Như vậy, so với tháng 12/2023 CPI tháng 4 tăng 1,19% và so với cùng kỳ năm trước tăng 4,4%. Bình quân 4 tháng đầu năm 2024, CPI tăng 3,93% so với cùng kỳ năm trước.

Trong mức tăng 0,07% của CPI tháng 4/2024 so với tháng trước, có 8 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng, 3 nhóm hàng có chỉ số giá giảm. Trong các nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng, nhóm giao thông tăng cao nhất với 1,95% (làm CPI chung tăng 0,19 điểm phần trăm). Nhóm này có mức tăng cao chủ yếu do giá xăng trong nước tăng 4,78%; giá dầu diezen tăng 2,01% do ảnh hưởng của các đợt điều chỉnh giá trong tháng.

Bên cạnh đó, giá vận tải hành khách bằng đường hàng không tăng 10,42%; đường thủy tăng 0,06%; đường bộ tăng 0,13%; xe buýt tăng 0,21% và taxi tăng 0,56% do giá xăng dầu tăng. Nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng cao thứ 2, tăng 0,92% do thời tiết giao mùa, các loại vi rút gây bệnh sinh sôi, số ca viêm phổi, thủy đậu, tay chân miệng tăng nhanh nên người dân có nhu cầu mua các loại thuốc tăng cường hệ miễn dịch.

Trong đó, giá nhóm thuốc giảm đau, hạ sốt, chống viêm tăng 0,19%; nhóm thuốc chống dị ứng và các trường hợp quá mẫn cảm tăng 0,13%; nhóm thuốc tim mạch và một số mặt hàng khác tăng 0,07%. Nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,27% chủ yếu do tăng giá các mặt hàng đồ dùng cá nhân (tăng 0,6%).

Trong tháng 4, yếu tố đáng quan tâm, trong 3 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá giảm, nhóm giáo dục giảm tới 2,93% so với tháng trước, góp phần giảm CPI chung giảm 0,18 điểm phần trăm, trong đó dịch vụ giáo dục giảm 3,32%. Nguyên nhân chủ yếu do ngày 31/12/2023, Chính phủ ban hành Nghị định số 97/2023/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 81/2021/NĐ-CP ngày 27/8/2021 của Chính phủ, trong đó yêu cầu các địa phương giữ ổn định mức thu học phí từ năm học 2023-2024 bằng mức thu học phí của năm học 2021-2022 đối với giáo dục mầm mon, giáo dục phổ thông công lập, theo đó một số trường học đã điều chỉnh giảm mức học phí sau khi đã thu theo Nghị định số 81/2021/NĐ-CP.

Cũng theo số liệu vừa được công bố, lạm phát cơ bản tháng 4/2024 tăng 0,17% so với tháng trước và tăng 2,79% so với cùng kỳ năm trước. Bình quân 4 tháng đầu năm 2024, lạm phát cơ bản tăng 2,81% so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn mức CPI bình quân chung (tăng 3,93%), chủ yếu do giá lương thực, xăng dầu và giá dịch vụ y tế là yếu tố tác động tăng CPI nhưng thuộc nhóm hàng được loại trừ trong danh mục tính toán lạm phát cơ bản.

Nhận định về lạm phát cả năm 2024, hầu hết các tổ chức và chuyên gia đều cho rằng, nhiều khả năng lạm phát năm 2024 sẽ cao hơn năm 2023, nhưng vẫn nằm trong tầm kiểm soát và mục tiêu mà Quốc hội, Chính phủ đặt ra là CPI bình quân trong khoảng 4 - 4,5%. Tuy nhiên, con số thống kê lạm phát 4 tháng đầu năm cho thấy, rủi ro lạm phát vẫn hiện hữu. Điều đáng lo ngại nhất trong điều hành giá năm nay là giá một số mặt hàng nguyên vật liệu, hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng thiết yếu dự báo có thể biến động tăng như: giá xăng dầu, giá một số vật liệu xây dựng, giá lương thực.

Cùng với đó, việc thực hiện lộ trình giá thị trường, tính đúng, tính đủ chi phí trong giá các hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước định giá tiếp tục là vấn đề cần xem xét trong năm 2024; lương tối thiểu vùng tăng 6% từ ngày 01/07/2024 sẽ khiến CPI tăng thêm khoảng 0,03 điểm phần trăm.

Tuy nhiên, vẫn có một số yếu tố giúp giảm áp lực lên mặt bằng giá như: Việt Nam có nguồn lương thực, thực phẩm dồi dào, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Một số chính sách hỗ trợ về thuế trong năm 2024 vẫn tiếp tục được thực hiện góp phần giảm chi phí đầu vào. Bên cạnh đó, giá cả và lạm phát toàn cầu đang hạ nhiệt; cung tiền trong nước tăng nhưng vòng quay tiền còn chậm, dự báo khoảng 0,7-0,9 lần…, cũng là những yếu tố hỗ trợ kiềm chế lạm phát.

Tại cuộc họp Ban Chỉ đạo điều hành giá xem xét công tác quản lý, điều hành giá quý I và định hướng công tác điều hành giá những tháng còn lại của năm 2024 diễn ra ngày 24/04, Bộ Tài chính cập nhật 3 kịch bản điều hành giá, tương ứng dự báo CPI bình quân tăng khoảng 3,64% so với năm 2023 (kịch bản 1); tăng 4,05% (kịch bản 2) và tăng khoảng 4,5% (kịch bản 3); Tổng cục Thống kê dự báo CPI bình quân trong khoảng 3,5% - 4,5% (3 kịch bản: 3,5%, 4,0% và 4,5%); NHNN dự báo CPI bình quân năm 2024 tăng trong khoảng 4 ± 0,5%.

Tóm lược thị trường trong nước tuần từ 22-26/4

Thị trường ngoại tệ: Trong tuần từ 22-26/4, tỷ giá trung tâm tiếp tục được NHNN điều chỉnh tăng 2 phiên đầu tuần rồi giảm trở lại. Chốt ngày 26/4, tỷ giá trung tâm được niêm yết ở mức 24.246 VND/USD, giảm 18 đồng so với phiên cuối tuần trước đó.

Sở giao dịch NHNN tiếp tục niêm yết tỷ giá mua USD ở mức 23.400 VND/USD, trong khi giá bán USD được niêm yết ở mức 25.450 VND/USD qua tất cả các phiên.

Tỷ giá đô-đồng liên ngân hàng giảm trở lại trong tuần từ 22-26/4. Kết thúc phiên 26/4, tỷ giá liên ngân hàng đóng cửa tại 25.334 VND/USD, giảm 116 đồng so với phiên cuối tuần trước đó.

Tỷ giá đô-đồng trên thị trường tự do cũng giảm qua các phiên trong tuần qua. Chốt phiên 26/04, tỷ giá tự do giảm 150 đồng ở chiều mua vào và 130 đồng ở chiều bán ra so với phiên cuối tuần trước đó, giao dịch tại 25.530 VND/USD và 25.630 VND/USD.

Thị trường tiền tệ liên ngân hàng trong tuần từ 22-26/4, lãi suất VND liên ngân hàng biến động theo xu hướng tăng ở tất cả các kỳ hạn. Chốt ngày 26/04, lãi suất VND liên ngân hàng giao dịch quanh mức: qua đêm 4,78% (+0,82 điểm phần trăm); 1 tuần 4,82% (+0,68 điểm phần trăm); 2 tuần 4,92% (+0,56 điểm phần trăm); 1 tháng 4,95% (+0,37 điểm phần trăm).

Lãi suất USD liên ngân hàng duy trì biến động tăng - giảm nhẹ qua các phiên ở tất cả các kỳ hạn. Phiên 26/04, lãi suất USD liên ngân hàng đóng cửa ở mức: qua đêm 5,24% (-0,01 điểm phần trăm); 1 tuần 5,31% (-0,02 điểm phần trăm); 2 tuần 5,38% (-0,02 điểm phần trăm) và 1 tháng 5,40% (-0,01 điểm phần trăm).

Trên thị trường mở tuần từ 22-26/4, ở kênh cầm cố, NHNN chào thầu ở kỳ hạn 14 ngày với khối lượng là 122.000 tỷ VND, lãi suất phiên đầu tuần ở mức 4,0%, các phiên sau tăng lên mức 4,25%. Có 117.805,1 tỷ đồng trúng thầu và 32.865,1 tỷ đồng đáo hạn trong tuần qua.

NHNN chào thầu tín phiếu NHNN kỳ hạn 28 ngày, đấu thầu lãi suất ở tất cả các phiên. Hết tuần, có tổng cộng 11.400 tỷ đồng trúng thầu, lãi suất tăng từ 3,73%/năm lên 3,75% xong chốt tuần ở mức 3,5%; có 26.500 tỷ đồng đáo hạn trong tuần qua.

Như vậy, NHNN bơm ròng 100.040 tỷ VND ra thị trường trong tuần qua bằng kênh thị trường mở, khối lượng tín phiếu NHNN lưu hành giảm xuống mức 51.350 tỷ đồng, khối lượng lưu hành trên kênh cầm cố ở mức 117.805,1 tỷ đồng.

Thị trường trái phiếu ngày 24/4, Kho bạc Nhà nước huy động thành công 5.596 tỷ đồng/12.000 tỷ đồng trái phiếu chính phủ gọi thầu (tỷ lệ trúng thầu 47%). Trong đó, kỳ hạn 5 năm và 20 năm huy động được toàn bộ khối lượng gọi thầu, lần lượt là 3.000 tỷ đồng và 2.000 tỷ đồng. Kỳ hạn 10 năm huy động được 236 tỷ đồng/4.000 tỷ đồng gọi thầu, kỳ hạn 15 năm huy động được 360 tỷ đồng/3.000 tỷ đồng gọi thầu. Lãi suất trúng thầu kỳ hạn 5 năm là 1,61% (+0,11 điểm phần trăm so với phiên đấu thầu trước), 10 năm là 2,50% (+0,05 điểm phần trăm), 15 năm là 2,68% (+0,03 điểm phần trăm), 20 năm là 2,80% (+0,15 điểm phần trăm).

Trong tuần này, ngày 02/05, Kho bạc nhà nước chào thầu 10.000 tỷ đồng trái phiếu chính phủ, trong đó kỳ hạn 5 năm và 15 năm chào thầu 3.000 tỷ đồng/kỳ hạn, 7 năm chào thầu 500 tỷ đồng, 10 năm chào thầu 2.500 tỷ đồng, kỳ hạn 30 năm chào thầu 1.000 tỷ đồng.

Giá trị giao dịch Outright và Repos trên thị trường thứ cấp trong tuần qua đạt trung bình 10.583 tỷ đồng/phiên, tăng so với mức 8.953 tỷ đồng/phiên của tuần trước đó. Lợi suất trái phiếu chính phủ trong tuần qua có sự phân hóa giữa các kỳ hạn. Chốt phiên 26/04, lợi suất trái phiếu chính phủ giao dịch quanh 1 năm 1,85% (+0,01 điểm phần trăm so với phiên trước đó); 2 năm 1,87% (+0,02 điểm phần trăm); 3 năm 1,90% (+0,02 điểm phần trăm); 5 năm 2,09% (-0,04 điểm phần trăm); 7 năm 2,31% (-0,04 điểm phần trăm); 10 năm 2,79% (-0,02 điểm phần trăm); 15 năm 3,0% (-0,03 điểm phần trăm); 30 năm 3,12% (không đổi).

Thị trường chứng khoán trong tuần từ 22-26/4, thị trường chứng khoán hồi phục trở lại. Chốt phiên 26/04, VN-Index đứng ở mức 1.209,52 điểm, tăng mạnh 34,67 điểm (+2,95%) so với cuối tuần trước đó; HNX-Index thêm 6,02 điểm (+2,73%) lên mức 226,82 điểm; UPCom-Index tăng 1,60 điểm (+1,84%) đạt 88,76 điểm.

Thanh khoản thị trường sụt giảm, trung bình đạt gần 17.900 tỷ đồng/phiên, giảm mạnh từ mức 29.200 tỷ đồng/phiên của tuần trước đó. Khối ngoại tiếp tục bán ròng mạnh hơn 1.230 tỷ đồng trên cả 3 sàn.

Tin quốc tế

Cục Dự trữ Liên bang Mỹ Fed không thay đổi lãi suất chính sách trong cuộc họp tháng 5, bên cạnh đó nước Mỹ ghi nhận nhiều chỉ báo kinh tế quan trọng trong những ngày qua. Tại cuộc họp kết thúc ngày hôm qua 01/05, Ủy ban Thị trường Mở liên bang FOMC (thuộc Fed) nhận định lạm phát đã giảm trong một năm vừa qua nhưng vẫn đang ở mức cao. FOMC vẫn cho thấy quyết tâm đạt được toàn dụng nhân công và lạm phát mục tiêu 2,0% trong dài hạn.

Để đạt được mục tiêu này, FOMC quyết định không thay đổi lãi suất chính sách đang ở mức 5,25 – 5,50%, sẽ đánh giá cẩn thận các dữ liệu sắp tới để đưa ra các quyết định về lãi suất chính sách trong tương lai. FOMC không cho rằng giảm lãi suất chính sách là phù hợp cho tới khi có niềm tin vững chắc hơn rằng lạm phát đang giảm về mức 2,0% một cách bền vững.

Bên cạnh đó, bắt đầu từ tháng Sáu năm nay, FOMC sẽ giảm tốc đối với quá trình thu hẹp bảng cân đối kế toán, từ thu hẹp 65 tỷ USD/tháng xuống còn 25 tỷ USD/tháng. Liên quan đến kinh tế Mỹ, GDP tại quốc gia này chỉ tăng 1,6% so với cùng kỳ trong quý đầu năm 2024, giảm tốc so với mức 3,4% của quý trước đó và đồng thời thấp hơn mức tăng 2,5% theo dự báo.

Về lạm phát, chỉ số giá tiêu dùng cá nhân PCE lõi tại Mỹ tăng 0,3% so với tháng trước trong tháng Ba, bằng với mức tăng của tháng 2 và đồng thời khớp với dự báo. So với cùng kỳ năm 2023, PCE lõi tăng 2,8% trong tháng Ba, không thay đổi so với kết quả ghi nhận ở tháng 2.

Mặc dù vậy, PCE toàn phần trong tháng Ba tăng 2,7%, cao hơn so với mức tăng 2,5% của tháng 2. Tại thị trường lao động, nước Mỹ tạo ra 8,49 triệu cơ hội việc làm trong tháng Ba, thấp hơn mức 8,81 triệu của tháng Hai và đồng thời thấp hơn mức 8,68 triệu theo dự báo. Sang tháng Tư, quốc gia này tạo ra 192 nghìn việc làm phi nông nghiệp mới (theo ADP), thấp hơn mức 208 nghìn của tháng Ba nhưng tích cực hơn kỳ vọng ở mức 179 nghìn.

Tiếp theo, ISM khảo sát cho biết chỉ số PMI lĩnh vực sản xuất tại nước Mỹ chỉ đạt 49,2% trong tháng 4, giảm nhẹ từ 50,3% của tháng Ba và đồng thời thấp hơn mức 50% theo dự báo. Cuối cùng, Conference Board khảo sát được chỉ số niềm tin tiêu dùng tại Mỹ ở mức 97,0 điểm trong tháng 4, giảm xuống từ 103,1 điểm của tháng Ba, trái với kỳ vọng tăng nhẹ lên 104,0 điểm.

Ngân hàng trung ương Nhật Bản BoJ cũng không thay đổi lãi suất chính sách trong cuộc họp cuối tháng Tư. Tuần trước, ngày 26/04, BoJ dự báo rằng lạm phát tại Nhật Bản sẽ ở quanh mức mục tiêu 2,0% vào năm tài khóa 2026. Cơ quan này quyết định duy trì lãi suất chính sách ở mức 0,1%, không thay đổi so với trước.

Cách đây hơn một tháng, ngày 19/03, BoJ đã quyết định nâng lãi suất chính sách từ mức -0,1% lên 0,1%, chấm dứt chính sách lãi suất âm kể từ 2016. Thị trường nhận định BoJ khó có thể tiếp tục nâng lãi suất chính sách mạnh trong năm 2024, bất chấp đồng JPY đang mất giá tương đối lớn so với USD và nhiều đồng tiền mạnh khác. Nguyên nhân chính do nền kinh tế nước này chưa thực sự phục hồi và ổn định.

Liên quan đến kinh tế Nhật Bản, chỉ số lạm phát CPI lõi tại quốc gia này tăng 2,2% so với cùng kỳ trong tháng Ba, thấp hơn một chút so với mức tăng 2,3% ghi nhận ở tháng trước đó. Tại thị trường lao động, tỷ lệ thất nghiệp tại Nhật Bản ở mức 2,6% trong tháng Ba, không thay đổi so với tháng Hai, trái với kỳ vọng giảm nhẹ xuống còn 2,5%.

Tiếp theo, sản lượng công nghiệp Nhật Bản tăng 3,8% so với tháng trước trong tháng Ba sau khi giảm 0,6% ở tháng trước đó, vượt qua mức tăng 3,4% theo dự báo. So với cùng kỳ năm 2023, mức sản lượng tháng Ba vẫn cho thấy sự sụt giảm 6,7%. Cuối cùng, doanh số bán lẻ tại Nhật Bản tăng 1,2% so với cùng kỳ trong tháng Ba, giảm tốc khá mạnh so với mức 4,7% của tháng Hai, đồng thời cũng thấp hơn mức tăng 2,5% theo dự báo.

P.L
MSB Research

Tin liên quan

Tin khác

Khai trương văn phòng  Trung tâm tài chính quốc tế Việt Nam tại Đà Nẵng

Khai trương văn phòng Trung tâm tài chính quốc tế Việt Nam tại Đà Nẵng

Theo UBND TP. Đà Nẵng, Lễ khai trương văn phòng của Trung tâm tài chính quốc tế Việt Nam tại TP. Đà Nẵng sẽ được tổ chức vào ngày 21/12/2025. Lễ khai trương diễn ra tại khu Công viên Phần mềm số 2, đường Như Nguyệt, phường Hải Châu, TP. Đà Nẵng.
Hà Tĩnh chuẩn bị “bấm nút” 6 dự án hơn 128.552 tỷ đồng

Hà Tĩnh chuẩn bị “bấm nút” 6 dự án hơn 128.552 tỷ đồng

Hà Tĩnh dự kiến tổ chức khởi công, khởi động đồng loạt 6 dự án quy mô lớn với tổng vốn hơn 128.552 tỷ đồng vào ngày 19/12/2025, hướng tới tạo cú hích tăng trưởng mới cho địa phương trong giai đoạn tới, đồng thời chào mừng Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng.
Điểm lại thông tin kinh tế ngày 16/12

Điểm lại thông tin kinh tế ngày 16/12

Tỷ giá trung tâm giảm 3 đồng, chỉ số VN-Index tăng mạnh 33,17 điểm hay đến ngày 27/11/2025, dư nợ tín dụng đạt toàn hệ thống đạt trên 18,2 triệu tỷ đồng... là một số thông tin kinh tế đáng chú ý trong ngày 16/12.
Tái định vị tài sản: Lối đi chiến lược của khách sạn – resort Việt Nam

Tái định vị tài sản: Lối đi chiến lược của khách sạn – resort Việt Nam

Thị trường khách sạn - nghỉ dưỡng Việt Nam đang bước vào chu kỳ tái cấu trúc mạnh mẽ. Khi nguồn cung mới chậm lại và thị hiếu du khách thay đổi, nâng cấp và tái định vị tài sản trở thành chiến lược cạnh tranh cốt lõi.
Chứng khoán Mỹ chững lại trước ngã rẽ lãi suất, Nasdaq ngược dòng nhờ nhóm công nghệ

Chứng khoán Mỹ chững lại trước ngã rẽ lãi suất, Nasdaq ngược dòng nhờ nhóm công nghệ

Kết phiên giao dịch ngày 16/12 (rạng sáng 17/12 theo giờ Việt Nam), thị trường chứng khoán Mỹ trong trạng thái phân hóa rõ rệt, phản ánh tâm lý thận trọng của giới đầu tư khi phải cùng lúc xử lý nhiều tín hiệu kinh tế trái chiều. Trong bối cảnh tăng trưởng kinh doanh có dấu hiệu chậm lại, lãi suất trái phiếu kho bạc Mỹ giảm và giá dầu lao dốc mạnh, các chỉ số chính trên Phố Wall không tìm được động lực đủ mạnh để bứt phá, dù một số nhóm cổ phiếu lớn vẫn giữ được sắc xanh nhẹ.
Kiến tạo hệ sinh thái năng lượng xanh để Việt Nam bứt phá trong chuỗi giá trị toàn cầu

Kiến tạo hệ sinh thái năng lượng xanh để Việt Nam bứt phá trong chuỗi giá trị toàn cầu

Trong bối cảnh thương mại tự do thế hệ mới, năng lượng xanh không còn là lựa chọn, mà đã trở thành điều kiện bắt buộc để hàng hóa Việt Nam duy trì lợi thế cạnh tranh và mở rộng thị trường xuất khẩu.
VN-Index bật mạnh nhờ dòng tiền bắt đáy lan tỏa

VN-Index bật mạnh nhờ dòng tiền bắt đáy lan tỏa

Phiên giao dịch ngày 16/12 khép lại với cú đảo chiều đáng chú ý của thị trường chứng khoán Việt Nam. Sau buổi sáng giằng co và có lúc lùi sâu về vùng hỗ trợ quanh 1.630 điểm, VN-Index bất ngờ tăng tốc trong phiên chiều, đóng cửa tại 1.679,18 điểm, tăng hơn 33 điểm so với phiên trước. Trên các sàn còn lại, HNX-Index tăng gần 6 điểm, trong khi UPCoM-Index giảm 0,25 điểm.
Đảo Ngọc tổ chức Hội thảo “Đặc khu Phú Quốc – Cất cánh cùng APEC”

Đảo Ngọc tổ chức Hội thảo “Đặc khu Phú Quốc – Cất cánh cùng APEC”

Trong bối cảnh Phú Quốc được chọn đăng cai APEC 2027, các chuyên gia cho rằng đây là “cơ hội vàng” mang tính thử nghiệm quốc gia, đòi hỏi thể chế đặc thù, phân quyền mạnh và vai trò dẫn dắt của nhà đầu tư chiến lược.
TOD - lời giải cho bài toán “đa cực, đa trung tâm”

TOD - lời giải cho bài toán “đa cực, đa trung tâm”

Ngày 12/12, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết 98 sửa đổi về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển TP. Hồ Chí Minh. Một trong những nội dung đột phá của nghị quyết là phát triển đô thị theo định hướng giao thông công cộng (TOD), nhằm định hình TP. Hồ Chí Minh với tầm vóc mới của một siêu đô thị hiện đại, bền vững.
Sóng cổ tức cổ phiếu ngân hàng cuối năm

Sóng cổ tức cổ phiếu ngân hàng cuối năm

Từ đầu tháng 12 đến nay, thị trường liên tiếp ghi nhận các ngân hàng công bố kế hoạch chi trả cổ tức bằng cổ phiếu, phát hành cổ phiếu thưởng cho cổ đông hiện hữu, qua đó gia tăng vốn điều lệ. Làn sóng tăng vốn diễn ra trong bối cảnh các ngân hàng cần củng cố năng lực tài chính, đáp ứng yêu cầu an toàn vốn và mở rộng dư địa tăng trưởng tín dụng.