Dỡ bỏ rào cản xuất nhập khẩu qua thương mại điện tử
Một trong những vấn đề doanh nghiệp quan tâm là việc miễn giấy phép, điều kiện, kiểm tra chuyên ngành với hàng hóa xuất nhập khẩu giao dịch qua thương mại điện tử. Điều 13.1.b Dự thảo quy định hàng hóa thương mại điện tử nhập khẩu có giá trị hải quan từng mặt hàng trong đơn hàng từ 2 triệu đồng trở xuống hoặc trên 2 triệu đồng với hàng hóa nhập khẩu đơn chiếc được miễn giấy phép, điều kiện, miễn kiểm tra chuyên ngành. Các doanh nghiệp cho rằng quy định này dường như chưa thực sự hợp lý. Bản chất của việc miễn kiểm tra chuyên ngành cho hàng hóa giao dịch qua thương mại điện tử là do giá trị của hàng hóa quá nhỏ so với chi phí kiểm tra. Tuy nhiên, thực tế nhiều hàng hóa đơn chiếc, chẳng hạn các mặt hàng điện, điện tử tương đối nhỏ gọn để vận chuyển xuyên biên giới, nhưng lại có giá trị lớn. Khi đó, việc áp dụng kiểm tra chuyên ngành với trường hợp này là cần thiết.
Cần tạo điều kiện để xuất nhập khẩu qua thương mại điện tử phát triển tốt hơn |
Dự thảo đặt ra giới hạn miễn giấy phép, điều kiện, kiểm tra chuyên ngành với hàng xuất nhập khẩu là 01 đơn/ngày và không quá 4 đơn/tháng. Như vậy, có thể suy đoán quy định đang thiết kế để quản lý theo người mua (tại Việt Nam), và quản lý đơn hàng theo đơn vị ngày, tháng. Cách thiết kế giới hạn theo đơn vị ngày, tháng rất khó áp dụng và thiếu tính khả thi. Theo quy định tại Điều 37 Nghị định 52/2013/NĐ-CP, sàn thương mại điện tử có trách nhiệm cung cấp thông tin về việc đơn hàng có được miễn kiểm tra chuyên ngành hay không cho người mua trước khi mua hàng. Như vậy để thực hiện quy định cần một cơ chế liên thông thông tin giữa tất cả các sàn. Song cơ chế này sẽ rất phức tạp do đặc thù của hoạt động mua sắm thương mại điện tử, bởi người tiêu dùng thường sử dụng nhiều nền tảng sàn thương mại điện tử vì vậy để thực hiện được quy đinh này hệ thống phải kết nối thông tin giữa tất cả các sàn. Hơn thế một người mua có thể đặt cùng lúc nhiều đơn hàng chỉ trong khoảng thời gian rất ngắn, việc này yêu cầu Hệ thống truy vấn phải cực kỳ nhanh và cập nhật liên tục để trả kết quả chính xác đến từng giây.
Nếu hệ thống truy vấn không thể đáp ứng được các yêu cầu trên, quy định này sẽ gây rủi ro rất lớn cho doanh nghiệp khi không thể cung cấp thông tin chính xác cho khách hàng và tăng rủi ro hủy đơn, dẫn đến tăng thêm chi phí cho doanh nghiệp. Do vậy, các doanh nghiệp đề xuất việc áp dụng hạn ngạch nên được quản lý theo khoảng thời gian dài hơn (chẳng hạn, theo năm) hoặc quản lý đơn lẻ theo từng sàn thương mại điện tử. Tương tự, việc miễn thuế với hàng hóa nhập khẩu giao dịch qua thương mại điện tử cũng cần sửa đổi quy định theo hướng áp dụng giới hạn theo năm.
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cũng cho rằng, cách quản lý theo người mua chỉ phù hợp với giao dịch qua biên giới truyền thống khi các thông tin về người bán ở nước ngoài thường khó kiểm chứng, và thực tế có thể dùng nhiều cách thức để thay đổi từ người bán này sang người bán khác. Còn đối với giao dịch thương mại điện tử qua biên giới, hoạt động giao dịch qua sàn thương mại điện tử kiểm soát được thông tin từ cả hai phía (người mua và người bán), đặc biệt là thông tin người bán được kiểm soát chặt chẽ hơn rất nhiều (theo các quy định tại Nghị định 52/2013/NĐ-CP và Nghị định 85/2021/NĐ-CP). Hơn nữa, người mua trên sàn thường có xu hướng dựa vào các tiêu chí như đánh giá, số lượng mua hàng,… để lựa chọn người bán, và do đó các đơn hàng thường sẽ tập trung chủ yếu vào một số lượng người bán nhất định. Các thông tin về những người bán này (tên gian hàng, thông tin người bán, thông tin gian hàng) sẽ đầy đủ và khó thay đổi.
Do vậy, thay vì quản lý theo người mua, VCCI đề xuất cơ chế kiểm soát hạn ngạch có thể áp dụng cho người bán. Theo đó, những người bán có số lượng đơn hàng trong năm thấp có thể được miễn kiểm tra chuyên ngành, tương tự như cách thức quản lý với hàng nhập khẩu qua chuyển phát nhanh. Những người bán có số lượng đơn hàng lớn có thể áp dụng việc kiểm tra chuyên ngành.
Điều 13.2 Dự thảo quy định việc miễn giấy phép, điều kiện, kiểm tra chuyên ngành không áp dụng với trường hợp các bộ quản lý ngành, lĩnh vực có cảnh báo về an toàn thực phẩm, lây lan dịch bệnh, gây nguy hại cho sức khỏe, tính mạng con người, gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến đạo đức xã hội, thuần phong mỹ tục, nguy hại cho kinh tế, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội. Việc này là cần thiết nhằm đảm bảo các lợi ích công cộng trong nước. Tuy nhiên, quy định này chưa rõ ở thời điểm áp dụng các quy định này. Việc có thể khiến đơn hàng dù đã được đặt và vận chuyển nhưng người mua bỏ hàng không nhận do chi phí phải trả lúc đó quá lớn so với dự tính ban đầu, từ đó gây thiệt hại cho các doanh nghiệp. Do vậy, VCCI đề nghị bổ sung quy định theo hướng không áp dụng quy định về cảnh báo với các đơn hàng đã gửi thông tin đến cho hệ thống.
Các doanh nghiệp cho rằng Điều 18.1 Dự thảo quy định việc kiểm tra thực tế hàng hoá khi có phát hiện nghi ngờ và theo nguyên tắc quản lý rủi ro là cần thiết và hợp lý. Tuy nhiên cơ quan soạn thảo cần bổ sung thêm quy định theo hướng: Trong trường hợp cần kiểm tra thực tế hàng hoá thì cơ quan hải quan phát thông báo bằng văn bản hoặc bằng phương tiện điện tử cho người làm thủ tục. Khi đó, người làm thủ tục có thể dùng thông báo chính thức này của cơ quan hải quan để thông báo đến cho người nhận hàng về sự chậm trễ giao hàng, cũng như làm căn cứ trường hợp bất khả kháng trong hợp đồng vận chuyển, giao nhận hàng hoá.