Doanh nghiệp logistics nội cần đẩy mạnh ứng dụng công nghệ
Doanh nghiệp logistics cần thêm nhiều hỗ trợ Doanh nghiệp logistics cần chuyển đổi số để tạo đột phá Doanh nghiệp logistics trước cơ hội từ EVFTA |
Bên cạnh đó, một số doanh nghiệp Việt như Transimex, Sotrans, Tân Cảng Sài Gòn... cũng đã có thể cung cấp dịch vụ 3PL, đủ sức cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài và đã có chi nhánh hoặc đại diện tại nhiều thị trường trên thế giới.
Ngoài ra, Việt Nam cũng có 63 doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics đã được Cơ quan quản lý hoạt động hàng hải của Mỹ (FMC) cấp phép cung cấp dịch vụ vận chuyển hàng hóa bằng đường biển đi và đến Mỹ, phục vụ đắc lực cho phát triển thương mại giữa hai nước. Mặc dù doanh nghiệp trong nước hiện đang vượt trội về số lượng, nhưng thực tế lại chỉ chiếm khoảng 30% thị phần, vì doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu có quy mô nhỏ, hạn chế về vốn, nhân lực cũng như kinh nghiệm hoạt động quốc tế.
Ông Đặng Vũ Thành, Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Kho vận Miền Nam (Sotrans), Phó chủ tịch VLA cho biết, hiện nay cuộc CMCN 4.0 đã và đang thay đổi toàn bộ viễn cảnh của ngành dịch vụ kho bãi và phân phối hàng hóa trên toàn thế giới. Do đó, để hỗ trợ các doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh, phát triển dịch vụ logistics, trước mắt, việc khơi thông thị trường là rất cần thiết, tạo điều kiện đưa doanh nghiệp Việt Nam nhanh chóng vươn lên, bắt kịp trình độ phát triển của thế giới. Để có thể nắm bắt và tận dụng hiệu quả cơ hội, các doanh nghiệp logistics trong nước cần chủ động xây dựng chiến lược phát triển bài bản, từng bước mở rộng phạm vi và quy mô hoạt động, ứng dụng khoa học công nghệ đem lại dịch vụ chất lượng cao với chi phí phù hợp, tăng cường khả năng thích ứng với rủi ro chuỗi cung ứng toàn cầu…
“Việc ứng dụng công nghệ thông tin đóng vai trò rất quan trọng trong cả tiến trình xử lý chuỗi logistics, bảo đảm kết nối chặt chẽ giữa các bên tham gia cũng như kiểm soát hiệu quả về mặt thời gian, chi phí, chất lượng dịch vụ. Tuy nhiên, phần lớn doanh nghiệp logistics Việt Nam đang gặp khó khăn liên quan đến chi phí đầu tư chuyển đổi số, dẫn đến việc ứng dụng công nghệ thông tin chưa cao. Vì vậy, rất cần có những chính sách hỗ trợ hiệu quả trong thời gian tới”, ông Thành nói.
Đồng tình với quan điểm này, đại diện Tổng Công ty Tân Cảng Sài Gòn cũng cho rằng, các doanh nghiệp cần tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, hiện đại hóa phương thức quản lý và vận hành, nhằm cắt giảm chi phí, nâng cao chất lượng, hiệu quả cung cấp dịch vụ. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh hoạt động liên doanh, liên kết giữa các nhà cung cấp dịch vụ logistics với nhau và với doanh nghiệp sản xuất, xuất nhập khẩu nhằm tạo lợi thế cạnh tranh và cải thiện năng lực cung cấp dịch vụ.
Theo ông Trần Thanh Hải, Phó cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu, Bộ Công thương, ngành logistics đang đứng trước nhiều thay đổi của thị trường, nhất là sự đổ bộ vào thị trường Việt Nam của các nhà vận tải quốc tế với hình thức vận chuyển mới, ứng dụng công nghệ số hiện đại. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp logistics Việt Nam cần đẩy mạnh quá trình chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ thông tin nhằm tạo đột phá, nâng cao năng lực cạnh tranh. Đồng thời, thống nhất quan điểm liên kết để cùng phát triển, chung tay kiến tạo hệ sinh thái logistics xanh, chuỗi cung ứng bền vững trong hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Theo Quyết định số 221/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ (sửa đổi bổ sung Quyết định số 200/QĐ-TTg) phê duyệt Kế hoạch hành động nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển dịch vụ logistics Việt Nam đến năm 2025, tỷ trọng đóng góp của dịch vụ logistics vào GDP đạt 5-6%; tốc độ tăng trưởng dịch vụ logistics đạt 15-20%; tỷ lệ thuê ngoài dịch vụ logistics đạt 50-60%; chi phí logistics giảm xuống tương đương 16-20% GDP; xếp hạng theo chỉ số năng lực quốc gia về logistics trên thế giới đạt thứ 50 trở lên… |
Đặc biệt, để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp logistics trong nước phát triển lớn mạnh, cần tạo ra hành lang pháp lý ổn định, thuận lợi hỗ trợ doanh nghiệp logistics hoạt động hiệu quả; đẩy mạnh hợp tác quốc tế về biển, tham gia các công ước quốc tế, hiệp định vận tải song phương, đa phương và hỗ trợ thủ tục pháp lý để doanh nghiệp Việt Nam mở rộng đại lý ra nước ngoài.