Doanh nghiệp Nhà nước mới ở ngưỡng ban đầu của hành trình số hóa
Ngày 5/11, Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) đã tổ chức hội thảo với chủ đề “Định vị DNNN Việt Nam trong Công nghiệp 4.0” nhằm tập trung đánh giá toàn diện về vai trò, sứ mệnh và chuẩn bị của DNNN trong Cách mạng công nghiệp lần thứ 4, đề xuất mục tiêu và định hướng giải pháp cho giai đoạn tới.
Hội thảo được tổ chức trong khuôn khổ Chương trình Australia hỗ trợ cải cách kinh tế Việt Nam (Aus4Reform).
6 thách thức lớn
Ông Trịnh Đức Chiều, Phó Trưởng ban Nghiên cứu cải cách và phát triển doanh nghiệp (CIEM) cho biết, Báo cáo đã đưa ra những mô hình của các nước đang ứng dụng và triển khai theo 2 cách tiếp cận về đổi mới sáng tạo: Đổi mới sáng tạo do nhà nước dẫn dắt và Đổi mới sáng tạo theo mô hình hệ sinh thái. Bên cạnh đó là đặt vấn đề cách tiếp cận công nghệ 4.0 cho DNNN Việt Nam.
Bởi, đổi mới sáng tạo là một quá trình thử thách đúng - sai, các doanh nghiệp chủ động và dám chấp nhận rủi ro. Vì vậy, quá trình này cũng đặt ra nhiều vấn đề cho DNNN, như DNNN có chấp nhận cuộc chơi, chấp nhận rủi ro, thua lỗ? Năng lực đổi mới, sáng tạo của DNNN Việt Nam đến đâu? Có cơ chế đầu tư, chính sách thúc đẩy đổi mới, sáng tạo?
Theo ông Chiều, Cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ mở ra nhiều cơ hội đối với DNNN, như tăng hiệu quả hoạt động từ cải thiện năng suất, quản trị; các ngành DNNN đang hoạt động, hưởng lợi lớn nhờ công nghệ; tập đoàn, tổng công ty quy mô lớn có lợi thế dẫn dắt thị trường; cải thiện quản lý của chủ sở hữu và thúc đẩy hợp tác với doanh nghiệp khác.
Tuy nhiên, đi cùng với cơ hội thì vẫn còn nhiều thách thức, như hiện DNNN có năng lực công nghệ, kỹ thuật cao hơn mức trung bình nhưng thấp hơn so với nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp lớn trên thế giới; quản trị tại DNNN chưa hiện đại, thiếu lao động trình độ cao, phù hợp với công nghệ mới; đặc biệt là thách thức trong chuyển đổi, khi đa phần DNNN dưa vào khai thác tài nguyên thiên nhiên, vị trí độc quyền.
Cũng theo nhóm nghiên cứu của CIEM, khu vực DNNN dù được kỳ vọng cao với vai trò then chốt trong nền kinh tế, trở thành động lực tăng trưởng và dẫn dắt các thành phần kinh tế khác, song hiện vẫn có vai trò khá mờ nhạt trong các hoạt động nghiên cứu khoa học, công nghệ.
Về mặt số lượng, DNNN có tỷ lệ hoạt động trong các ngành khoa học, công nghệ; chế biến, chế tạo; thông tin viễn thông khá thấp, trong khi nhiều DNNN đang kinh doanh ở các lĩnh vực lợi nhuận và rủi ro cao như bất động sản. DNNN đang thua xa so với khu vực tư nhân ở mức độ áp dụng số hóa tại doanh nghiệp.
Trong 20 ngành, lĩnh vực, DNNN chỉ vượt trội hơn khu vực tư nhân ở 3 ngành là tài chính và ngân hàng; sản xuất phân phối điện khí ga và giải trí. Ngoại trừ một số DNNN quy mô lớn như Tập đoàn Viettel, Điện lực Việt Nam và các ngân hàng quốc doanh quy mô lớn hiện đã đầu tư vào nghiên cứu, phát triển các sản phẩm, dịch vụ mới của Công nghiệp 4.0, nhìn chung các DNNN Việt Nam đều chỉ mới ở ngưỡng bắt đầu của hành trình số hóa.
Nhóm nghiên cứu của CIEM đã chỉ ra 6 thách thức lớn đối với DNNN trong hành trình số hóa: Khả năng số hóa, cá nhân hóa các sản phẩm, dịch vụ còn hạn chế; DNNN chưa có cách tiếp cận hệ thống để biến dữ liệu thành giá trị; DNNN thiếu khả năng đặt giá linh hoạt do hạn chế năng lực phân tích khách hàng cộng thêm các rào cản quy định, ngăn cản tự do định giá; các DNNN tỷ lệ sở hữu nhà nước cao thiếu trầm trọng các tài năng về công nghệ thông tin và bộ phận IT của các DNNN này ít khi đạt được mục tiêu kỳ vọng; nguồn lực để thúc đẩy nghiên cứu phát triển khoa học công nghệ mới của Cách mạng công nghiệp 4.0 trong các doanh nghiệp còn ở mức rất hạn chế; mức độ hợp tác của DNNN với bên ngoài còn khá hạn chế, một phần xuất phát từ sự thiếu vắng các quy chế hợp tác, khả năng bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ cũng như quản trị rủi ro đối với các mối nguy trên mạng.
Đáng lưu ý là quy mô doanh nghiệp, tỷ lệ sở hữu và ngành nghề có tác động đến mức độ vận hành số hóa của DNNN. Theo đó, các doanh nghiệp có tỷ lệ cổ phần Nhà nước dưới 50%, doanh nghiệp quy mô lớn hoặc thuộc các ngành có tính cạnh tranh cao như tài chính ngân hàng, khoa học công nghệ, chế biến chế tạo…có xu hướng có điểm vận hành số hóa cao hơn mức trung bình.
Cần có chiến lược riêng cho DNNN
Theo Phó Viện trưởng CIEM Phan Đức Hiếu, DNNN đang đứng trước cơ hội lớn để cải thiện năng suất, hiệu quả sản xuất kinh doanh nếu thực hiện đầu tư tăng cường khả năng vận hành số hóa. Trung bình cứ tăng 1% lao động sử dụng internet sẽ thúc đẩy tăng 0,82% tăng doanh thu và khi tăng 1% lao động sử dụng PC sẽ thúc đẩy tăng 0,87% doanh thu.
Tuy nhiên, cải thiện khả năng vận hành số hóa bằng cách tăng cường sử dụng máy tính và internet là hướng đi tốt nhưng chưa đủ. Cải thiện khả năng vận hành số hóa chỉ có tác dụng lớn với các DNNN thuộc các ngành nông nghiệp, chế biến, chế tạo, bán buôn bán lẻ. Trong khi đó, tác động lên doanh thu của DNNN các ngành thông tin viễn thông, tài chính ngân hàng và khoa học công nghệ là không lớn.
“Cần có chiến lược công nghiệp 4.0, trong đó có nội dung liên quan đến cơ chế, chính sách cụ thể đối với khu vực DNNN trong Cách mạng công nghiệp 4.0. Uỷ ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp cần kiến nghị việc rà soát, sửa đổi các quy định pháp luật về quản trị DNNN, ban hành các quy chế, hướng dẫn theo hướng tạo động lực và sự linh hoạt trong đầu tư, kinh doanh của DNNN trong các lĩnh vực công nghệ mới; áp dụng các thực tiễn tốt nhất của khu vực doanh nghiệp tư nhân về quản trị doanh nghiệp và trách nhiệm giải trình của lãnh đạo DNNN”, ông Phan Đức Hiếu bình luận.
Cũng theo ông Hiếu, trong các lĩnh vực cụ thể, DNNN được coi là có thể nắm giữ các vai trò quan trọng trong các ngành hỗ trợ cho quá trình đổi mới, sáng tạo như phát triển hạ tầng, an sinh xã hội, thúc đẩy phát triển văn hóa, y tế, giáo dục, phát triển bao trùm, tạo cơ hội việc làm bình đẳng cho nhóm yếu thế, nữ giới, người khuyết tật…
Tuy nhiên, trong các ngành, công nghệ trọng điểm của Cách mạng công nghiệp 4.0, DNNN sẽ không nhất thiết phải đóng vai trò dẫn dắt, mà nên để cho khu vực kinh tế tư nhân năng động và chấp nhận rủi ro cao hơn đảm nhận.