Khó khăn vướng mắc khi TCTD xử lý tài sản bảo đảm
Ảnh minh họa |
Xử lý tài sản bảo đảm (TSBĐ) là một trong những công đoạn của quá trình cấp tín dụng của các TCTD; và thông thường các TCTD luôn quy định, thỏa thuận các biện pháp xử lý TSBĐ với khách hàng (KH), bên thế chấp thông qua các Hợp đồng tín dụng (HĐTD), Hợp đồng thế chấp (HĐTC), mục đích là bảo đảm an toàn vốn khi có sự cố tín dụng xảy ra.
Việc xử lý TSBĐ trên thực tế thường rất khó khăn, nó phụ thuộc vào nhiều vấn đề, trong đó lớn nhất là cơ chế pháp luật và thực tế khi triển khai có những vướng mắc như sau:
I. Vướng mắc trong việc xử lý TSBĐ theo hình thức “Gán nợ” – nhận chính TSBĐ là QSDĐ, quyền sở hữu nhà ở để cấn trừ nợ vay:
Mặc dù vấn đề này được Quy định tại Nghị định 163/2006/NĐ-CP và Thông tư Liên tịch số 16/2014/TTLT-BTP-BTNMT-NHNN hướng dẫn một số vấn đề về xử lý TSBĐ nhưng khi triển khai trên thực tế còn rất nhiều vướng mắc chưa được xử lý để các TCTD xử lý nhanh các thủ tục liên quan. Lý do: Các địa phương vận dụng, áp dụng các quy định của pháp luật không thống nhất, có địa phương thực hiện, có địa phương không thực hiện, thậm chí có địa phương chưa biết các nội dung này để áp dụng.
- Theo quy định của luật TCTD năm 2010, TCTD không được kinh doanh bất động sản (BĐS), trừ các trường hợp nắm giữ BĐS do việc xử lý nợ vay và trong thời hạn 03 năm, kể từ ngày quyết định xử lý TSBĐ là BĐS, TCTD phải bán, chuyển nhượng, theo đó các cơ quan nhà nước cho rằng TCTD khi xử lý TSBĐ là BĐS theo hình thức nhận gán nợ để bán chuyển nhượng là kinh doanh BĐS, do vậy một số địa phương không chấp nhận thực hiện các thủ tục sang tên BĐS cho TCTD mà yêu cầu TCTD phải thực hiện phương án sử dụng BĐS phù hợp với chức năng kinh doanh của TCTD thậm chí bắt buộc phải chuyển mục đích sử dụng đất từ đất ở sang đất sản xuất kinh doanh theo quy định của pháp luật, đồng thời thay đổi thời hạn sử dụng đất của BĐS từ lâu dài sang hình thức sử dụng đất có thời hạn. Như vậy, vô hình trung đã thay đổi bản chất của BĐS từ đất ở, có thời hạn sử dụng lâu dài và có giá trị, khi thực hiện thủ tục gán nợ sang TCTD lại bị hạn chế về mục đích, và thời gian sử dụng đất, và đương nhiên xét về mặt hồ sơ, thì giá trị QSDĐ là giảm 40% so với mục đích và thời hạn sử dụng đất ban đầu.
Trong khi đó thực chất là TCTD nhận gán nợ là để chuyển nhượng lại BĐS là QSDĐ, do vậy QSDĐ sau khi nhận gán nợ sẽ không sử dụng đúng mục đích theo phương án sử dụng đất đã lập nộp cho cơ quan có thẩm quyền, như vậy, với nội dung này, TCTD thậm chí vi phạm quy định của luật đất đai trong việc sử dụng đất không đúng mục đích và theo quy định có thể bị thu hồi đất.
Trường hợp nhận gán nợ QSDĐ là đất sản xuất nông nghiệp, các cơ quan có thẩm quyền từ chối sang tên, trong khi đây cũng là tài sản thế chấp với lý do TCTD không có chức năng sản xuất nông nghiệp và thực tế tại Ngân hàng Phương Đông có rất nhiều trường hợp nhận gán nợ QSDĐ nông nghiệp kéo dài 5, 6 năm vẫn chưa hoàn tất việc sang tên cho ngân hàng.
- Khó khăn:
- Các TCTD không thực hiện được việc sang tên QSDĐ, do vậy không thể hạch toán dứt điểm được khoản nợ, vì theo quy định đối với QSDĐ chỉ hạch toán khi hoàn tất việc đăng bộ sang tên hay TCTD phải được cấp Giấy chứng nhận QSDĐ.
- TCTD không thể chủ động xử lý được BĐS thống nhất gán nợ.
- Đề xuất: Có cơ chế hướng dẫn việc nắm giữ BĐS của TCTD khi xử lý nợ đồng thời thống nhất áp dụng cơ chế này một cách đồng bộ.
II. Trình tự tố tụng liên quan đến việc khởi kiện thu hồi nợ:
Thực tế xét xử các vụ việc Ngân hàng đang gặp rất nhiều khó khăn tại Tòa án:
- Xác định thẩm quyền xem xét, giải quyết vụ án, các Tòa án (TA) hiện nay hiểu rất khác nhau, có Tòa tôn trọng việc thỏa thuận của các bên được thỏa thuận trong các HĐTD, HĐTC, tạo điều kiện cho TCTD tập trung xử lý các vụ việc thuận lợi, chấp nhận nội dung thỏa thuận chọn TA nơi có trụ sở hoạt động của TCTD, Chi nhánh, Phòng giao dịch của TCTD. Trên thực tế có rất nhiều TA đã đồng ý thụ lý và xử lý theo nội dung thỏa thuận này, nhưng có nhiều TA không chấp nhận mà cho rằng phải là TA nơi có tài sản thế chấp hoặc nơi thường trú của bị đơn. Do vậy, để các vụ kiện được thuận lợi thì các cơ quan tiến hành tố tụng nên thống nhất quan điểm để cho TCTD và KH, bên thế chấp chủ động chọn TA tiến hành xử lý vụ việc.
- Một thực tế khác ảnh hưởng rất lớn đến tiến trình tố tụng khi khởi kiện là:
- TA không tống đạt được cho KH, bị đơn và người liên quan đến vụ việc; lý do: họ cố tình trốn tránh, không hợp tác… TA lại ra quyết định trả lại đơn khởi kiện cho TCTD, hoặc đình chỉ vụ án, cho rằng chưa đủ điều kiện khởi kiện. Trong khi đó mọi quyền lợi, nghĩa vụ của các bên liên quan đã được thỏa thuận rất chi tiết, cụ thể trong HĐTD, HĐTC và các văn bản thỏa thuận khác, không những thế tài sản thế chấp vẫn tồn tại trên thực tế nhưng TA vẫn trả đơn khởi kiện, đình chỉ vụ án vì các lý do không triệu tập được bị đơn, KH, người liên quan. Đây là yếu tố chủ yếu gây ra tình trạng trì trệ đối với quá trình tố tụng khi TCTD đi khởi kiện KH, bên thế chấp.
- Các quy định của pháp luật tố tụng cũng đã có quy định rất rõ, nếu Bị đơn, người liên quan, được triệu tập hợp lệ quá 2 lần mà vẫn vắng mặt, thì TA có quyền xem xét xét xử vắng mặt theo thủ tục chung.
- Mặt khác căn cứ Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn: Trong trường hợp trong đơn khởi kiện không ghi đầy đủ, cụ thể hoặc ghi không đúng tên, địa chỉ của người bị kiện; tên địa chỉ của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, thì TA yêu cầu Người khởi kiện ghi đầy đủ và đúng tên, địa chỉ của Người bị kiện, Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Nếu Người khởi kiện không thực hiện, thì TA căn cứ khoản 2 điều 169 BLTTDS trả lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo cho họ mà không thụ lý vụ án, hoặc tạm đình chỉ khi đã thụ lý vụ án với lý do: Chưa tìm được địa chỉ bị đơn là hoàn toàn sai quy định vì không thuộc một trong các căn cứ quy định tạm đình chỉ vụ án quy định tại điều 189 BLTTDS. Đối với trường hợp trong đơn khởi kiện Người khởi kiện đã ghi đầy đủ, cụ thể và đúng địa chỉ, tên của Người bị kiện, Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan theo đúng quy định tại khoản 2 điều 164 BLTTDS và theo hướng dẫn tại Điều 5 của Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán TANDTC và mẫu số 1, nhưng Người bị kiện, Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có nơi cư trú ổn định, thường xuyên thay đổi nơi cư trú mà không thông báo địa chỉ mới cho Người khởi kiện, cho TA nhằm mục đích giấu địa chỉ, trốn tránh nghĩa vụ đối với Người khởi kiện, thì được coi là trường hợp Người bị kiện, người có quyền, nghĩa vụ liên quan cố tình giấu địa chỉ, TA tiến hành thụ lý và giải quyết vụ án theo thủ tục chung.
Tuy nhiên trên thực tế, các nội dung quy định trên vẫn chưa được TA áp dụng, có thể nó gần như TA không thực hiện để thụ lý và xem xét xử lý vụ án, vì rất nhiều lý do: họ cho rằng, thế nào là triệu tập hợp lệ, phải tiến hành các thủ tục triệu tập như thế nào? Hoặc việc đánh giá như thế nào là cố tình không thông báo nơi cư trú, cố tình giấu địa chỉ, các vấn đề này phụ thuộc rất nhiều vào quan điểm cá nhân của Thẩm phán thụ lý vụ án. Hoặc một số thẩm phán cho rằng các thông tin liên quan đến tên, địa chỉ của Người bị kiện do bên khởi kiện cung cấp là chưa chính xác với thực tế, TA không tống đạt, triệu tập được Bên bị khởi kiện… Trong khi đó việc quy định nghĩa vụ của các bên như thế nào thì chưa có cơ sở để đánh giá.
Do vậy, rất cần văn bản hướng dẫn, đánh giá và quy định nghĩa vụ cụ thể cho các bên liên quan, để tránh trường hợp các cơ quan tố tụng áp dụng pháp luật không thống nhất.
- Về thời gian và thủ tục tiến hành giải quyết vụ án:
Điều 179 Bộ luật TTDS 2015 quy định, thời gian xử lý các vụ án dân sự, kinh doanh thương mại liên quan đến các HĐTD, thì thời gian chuẩn bị xét xử là 2 tháng, kể từ ngày thụ lý, đối với những vụ án phức tạp, thì chánh án TA có thể gia hạn, nhưng thời gian gia hạn đối với việc chuẩn bị xét xử là không qua 2 tháng. Thực tế các vụ việc trên thường kéo dài từ 6 đến 12 tháng, gây rất nhiều thiệt hại cho các TCTD.
Với các nội dung vướng mắc liên quan đến thủ tục và thời gian tiến hành giải quyết các vụ việc khởi kiện, đã gây rất nhiều khó khăn cho việc xử lý nợ của các TCTD trên thực tế.
Đề xuất: Có cơ chế pháp luật hướng dẫn cụ thể các bước phải thực hiện của TCTD trong việc khởi kiện, để thực thi các nội dung đã được TCTD và KH, bên thế chấp đã thống nhất thỏa thuận HDTC, HDTD.
III. Triển khai việc thu giữ TSBĐ theo quy định của NĐ 163/2006 NĐ-CP (NĐ 163):
Để tiến hành xử lý TSBĐ, các TCTD có thể áp dụng các quy định của Nghị định 163, theo đó TCTD được tiến hành thực hiện quyền thu giữ tài sản thế chấp để xử lý và thu hồi nợ khi có thỏa thuận nội dung này trong các HĐTC, HĐTD, đồng thời được quyền yêu cầu các cơ nhà nước hỗ trợ triển khai việc thu giữ, nhưng trên thực tế các TCTD chưa tiến hành thu giữ được TSBĐ kể từ Nghị định 163 được ban hành và có hiệu lực. Lý do: Bên bảo đảm, bên quản lý tài sản thế chấp bất hợp tác, chây ỳ, trì hoãn không chuyển giao TSBĐ, trong khi đó pháp luật hiện hành chưa có quy định các biện pháp chế tài để xử lý các đối tượng này. Hơn thế nữa chưa văn bản hướng dẫn chi tiết các nghĩa vụ của các cơ quan nhà nước trong việc triển khai hỗ trợ việc thu giữ.
Năm 2014, Bộ Tư pháp – Bộ Tài nguyên và Môi trường – Ngân hàng Nhà nước ban hành Thông tư Liên tịch số 16/2014/TTLT-BTP-BTNMT-NHNN, hướng dẫn một số vấn đề về xử lý TSBĐ. Thông tư hướng dẫn chi tiết quá trình thực hiện việc thu giữ, bán TSBĐ, nhận chính TSBĐ để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm và thủ tục chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản sau khi xử lý TSBĐ. Có thể nói việc ban hành Thông tư liên tịch của các cơ quan đã mở ra định hướng mới cho việc xử lý TSBĐ hiệu quả của TCTD không thông qua thủ tục khởi kiện gây mất nhiều thời gian và gặp nhiều khó khăn đã nêu tại phần II.
Tuy nhiên sau một thời gian áp dụng, việc thu giữ TS có những phát sinh thực tế mà Nghị định 163 và Thông tư liên tịch số 16 không thể giải quyết dứt điểm, cụ thể:
- Trong trường hợp TCTD thu giữ TSBĐ là nhà, đất để bán đấu giá theo quy định thu nợ, TCTD và các cơ quan liên quan đã thực hiện đúng trách nhiệm theo quy định để hoàn tất việc thu giữ và TCTD cũng đã hoàn tất việc bán đấu giá cho bên thứ ba theo quy định. Tuy nhiên, trên thực tế thì bên thế chấp, bên quản lý tài sản không bàn giao tài sản cho tổ chức bán đấu giá để bàn giao cho bên trúng đấu giá tài sản và hiện nay, chưa có văn bản pháp luật nào quy định việc cưỡng chế bàn giao tài sản đấu giá thành cho bên mua.
- Và như vậy, để hoàn tất việc thu nợ theo phương án này, phải phát sinh thêm một vụ kiện đòi nhà đang quản lý bất hợp pháp. Lý do: Tổ chức bán đấu giá cũng như TCTD không thể yêu cầu cơ quan Thi hành án thực hiện cưỡng chế đối với bên đang chiếm giữ tài sản bất hợp pháp sau khi hoàn tất các thủ tục thu giữ theo quy định, vì cơ quan thi hành án chỉ thi hành cưỡng chế theo nội dung bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của TA có thẩm quyền.
- Như vậy, việc thu giữ TSBĐ và bán đấu giá thu nợ sẽ lại gặp rất nhiều khó khăn, nhiều khi phải bồi thường tiền cọc cho bên trúng giá đấu khi Tổ chức bán đấu giá, và TCTD không bàn giao tài sản được trên thực tế.
Kiến nghị: Cần quy định chế tài rất cụ thể đối với việc chây ỳ, không bàn giao TSBĐ của bên thế chấp, bên quản lý tài sản đồng thời cho phép các cơ quan Thi hành án được tổ chức cưỡng chế bàn giao TSBĐ cho bên trúng đấu giá khi hoàn tất việc đấu giá tài sản theo quy định.