Kỳ vọng lớn vào thoái vốn doanh nghiệp nhà nước
Đề xuất mới về cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước | |
Doanh nghiệp Nhà nước trước áp lực kỳ vọng |
Ảnh minh họa |
Theo Quyết định số 26/2019/QĐ-TTg phê duyệt Danh mục DN thực hiện cổ phần hóa đến hết năm 2020, có 93 DN thực hiện cổ phần hóa. Trong đó, nhà nước sẽ nắm giữ từ 65% vốn điều lệ trở lên đối với 4 DN thực hiện cổ phần hóa, bao gồm Agribank, Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam – Công ty mẹ (Vinacomin-TKV), Tổng công ty Lương thực miền Bắc (Vinafood I) và Công ty TNHH một thành viên Khoáng sản.
Có 62 DN thực hiện cổ phần hóa mà nhà nước giữ trên 50% đến dưới 65% vốn điều lệ. Nổi bật như Tổng công ty Viễn thông MobiFone, Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT), Tổng công ty Cà phê, Tổng công ty Công nghiệp xi măng Việt Nam (Vicem), Tổng công ty Vận tải Hà Nội, Tổng công ty Đầu tư và Phát triển hạ tầng đô thị (UCID)…
Còn lại 27 DN thực hiện cổ phần hóa sẽ do nhà nước nắm giữ từ 50% vốn điều lệ trở xuống hoặc không nắm giữ cổ phần, bao gồm Tổng công ty Đầu tư phát triển nhà và đô thị (HUD), Tổng công ty Giấy Việt Nam, Công ty Vàng bạc đá quý Sài Gòn (SJC)…
Tuy nhiên, việc triển khai để đạt được yêu cầu này đòi hỏi một giải pháp quyết liệt, tổng thể bởi nhìn lại kết quả tiến độ cổ phần hóa và thoái vốn nhà nước tại DN năm 2019 thực hiện chậm và đều không đạt kế hoạch đề ra. Trong năm 2019 chỉ có 9 DN được cấp có thẩm quyền phê duyệt phương án cổ phần hóa, tuy nhiên trong đó chỉ có 3 DN thuộc danh mục các DN cổ phần hóa theo công văn số 991/TTg-ĐMDN (2 DN) và Quyết định số 26/2019/QĐ-TTg (1 DN) của Thủ tướng.
Ông Đinh Việt Tùng - Phó tổng giám đốc SCIC cho biết, tổng số DN SCIC tiếp nhận từ khi thành lập đến nay là 1.068 DN và đã thoái vốn gần hết, đến thời điểm này chỉ còn 148 DN. Tuy kết quả rất khả quan như vậy, thế nhưng bán vốn là rất kém. Tỷ lệ bán vốn hiện nay chỉ đạt 17% so kế hoạch cả năm được giao.
Lý do rất nhiều, nhưng một trong những vướng mắc nhất là vấn đề định giá DN. Việc định giá DN theo các quy định mới rất chặt chẽ, phải tính đủ, tính tối đa theo các phương pháp định giá dựa trên tiềm năng DN, chứ không đơn thuần theo phương pháp định giá tài sản. Ngoài ra, SCIC còn phải tuân thủ quy định là giá khởi điểm không thấp hơn trung bình giá cổ phiếu trong ít nhất 30 phiên liên tục trước khi chọn thời điểm chốt giá. “Có DN chúng tôi mới đầu tư 2-3 năm thì làm sao có giá trị lịch sử, văn hoá. Tuy nhiên, quy định vẫn yêu cầu tính 1% lịch sử, văn hoá vào giá trị DN”, Phó tổng giám đốc SCIC nói.
Về đất đai, Nghị định số 32/2018/NĐ-CP yêu cầu “Xác định đầy đủ giá trị thực tế phần vốn của DNNN đầu tư ra ngoài bao gồm giá trị được tạo bởi quyền sử dụng đất giao có thu tiền sử dụng đất, quyền sử dụng đất nhận chuyển nhượng hợp pháp, quyền sử dụng đất thuê (thuê trả tiền một lần cho cả thời gian thuê, thuê trả tiền hàng năm), giá trị các quyền sở hữu trí tuệ, bao gồm giá trị văn hóa, lịch sử khác, nhãn hiệu, tên thương mại (nếu có) theo quy định của pháp luật”.
Ông Tùng cho rằng, các quy định này tương đối chặt chẽ trong khi đó, lợi thế vị trí đất hiện nay theo Luật Đất đai thì chúng ta chỉ tính tiền thuê đất trong kỳ hạn lâu nhất là 5 năm là phải tính lại tiền thuê đất, nhưng trong Nghị định 32 hướng dẫn chưa rõ nên khi tính toán thì thường các đơn vị tư vấn lấy toàn bộ giá trị thời gian thuê đất còn lại, nhân với phần chênh lệch giá thuê dẫn đến giá trị DN tăng lên rất nhiều.
Thế nên, đã có những đơn vị DN như Nhiệt điện Quảng Ninh, khi SCIC đầu tư là 11.200 đồng/CP sau đó bán giá 11.800 đồng/CP nhưng không thành công. Theo quy định SCIC được giảm giá 3 lần, nhưng định giá lại theo Nghị định 32 lên đến 23.000 đồng/CP. “Biết là không thể bán được thế nhưng vẫn phải làm, vẫn phải định giá, vẫn phải bán vì quy định hiện nay là như vậy”, ông Tùng cho hay.
Tuy nhiên, ông Tùng cũng rất lạc quan về bức tranh năm 2020 bởi Bộ Tài chính đang rất quyết liệt sửa đổi Nghị định 32. Qua các buổi làm việc và các hội thảo, Bộ Tài chính đang tiếp cận theo hướng bỏ quy định thêm 1% giá trị lịch sử, văn hóa. Định giá về lợi thế quyền sử dụng đất cũng được tính toán lại để giá trị DN gần sát với giá thực tế hơn.
Tháo được nút thắt này, bức tranh về thoái vốn nhà nước năm 2020 sẽ khởi sắc hơn. Điều này sẽ tác động lớn đến hàng hóa và nguồn vốn trên TTCK. Theo quy định chỉ những DN nào chưa niêm yết có giá trị vốn nhà nước dưới 10 tỷ đồng mới có thể thoái vốn tại các CTCK, còn lại là các DN có vốn nhà nước trên 10 tỷ đồng thì phải thoái vốn thông qua Sàn giao dịch chứng khoán Hà Nội và Hồ Chí Minh. Nhờ TTCK ổn định, năm 2019, SCIC đã thoái vốn thành công 11 DN thu được khoảng 313 tỷ đồng trên 81 tỷ đồng chào bán, bằng gấp 3,8 lần.
Với tư cách là nhà tư vấn thành công thương vụ Tập đoàn Bảo Việt thoái vốn, bán vốn cho Tập đoàn Sumitomo và cũng từng là công ty tư vấn thương vụ lớn nhất Việt Nam tại Sabeco, ông Nhữ Đình Hòa, Tổng giám đốc Công ty cổ phần Chứng khoán Bảo Việt (BVS) cho rằng, việc sửa đổi Nghị định 32 là rất cần thiết để phù hợp với điều kiện thực tế của của thị trường vì nó sẽ tạo tiền đề khả thi hơn trong công tác thoái vốn và giao dịch trên TTCK.
Liên quan tới những thương vụ mà BVS tư vấn phát hành trong những năm trước đây và gần đây, nhất là tư vấn cho Tập đoàn Bảo Việt bán cho Sumimoto Life, ông Hòa cho biết, giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài tại TTCK Việt Nam trên thị trường thứ cấp khoảng 6.000 tỷ đồng, khoảng 300 triệu USD.
Tuy nhiên, nếu thống kê những thương vụ phát hành riêng lẻ với tính chất giống như của Tập đoàn Bảo Việt phát hành cho Sumimoto thì có ý nghĩa rất lớn với tổng cộng khoảng 2,7 tỷ USD. Điều này cho thấy rằng niềm tin của NĐT nước ngoài ngày càng tốt hơn đối với các DN Việt Nam. Tuy nhiên, ông Hòa cho rằng, những thương vụ chào bán thành công này đều xuất phát từ các DN có nền tảng tốt và quản trị công ty minh bạch.