Ngân hàng mở: Xu hướng tất yếu
Ngân hàng mở liên kết với mọi dịch vụ cuộc sống | |
Ngân hàng mở: Vấn đề ở pháp lý và công nghệ |
Phát biểu khai mạc Hội thảo, TS. Nguyễn Quốc Hùng, Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam đánh giá, ngân hàng mở (Open Banking) là một mô hình kinh doanh mới và tiềm năng. Theo đó, ngân hàng cho phép bên thứ ba viết ứng dụng và cung cấp dịch vụ từ chính dữ liệu của ngân hàng.
Với việc ứng dụng giao diện lập trình (API), công nghệ cho phép các bên thứ ba truy cập vào dữ liệu mở hay truy cập bảo mật đến các dữ liệu đóng của một tổ chức khi được sự đồng ý của chủ sở hữu dữ liệu và tuân thủ các quy định pháp luật có liên quan.
Khi được chia sẻ thông qua Open API, dữ liệu có thể được sử dụng để các công ty Fintech tạo thêm nhiều ứng dụng mới, cung cấp thêm tiện ích cho khách hàng, hỗ trợ khách hàng kiểm soát thông tin cũng như ra quyết định tốt hơn.
Trong mô hình này, ngân hàng sẽ là người cung cấp các dịch vụ thông qua Open API và cùng các đối tác của mình xây dựng một hệ sinh thái nhằm thỏa mãn các yêu cầu của người dùng. Bằng cách khuyến khích các ngân hàng và các bên thứ ba kết nối với nhau thông qua các Open API của ngân hàng, trải nghiệm tài chính của khách hàng có thể được cải thiện mạnh mẽ.
Open Banking giúp các ngân hàng tiếp cận đa dạng đối tượng khách hàng với chi phí hợp lý thông qua các ứng dụng khác của đối tác, rút ngắn lại quá trình xử lý giao dịch, giảm thiểu các tác vụ thủ công, xây dựng các giải pháp kinh doanh tối ưu và cung cấp được dịch vụ toàn diện, tiện lợi nhất cho khách hàng.
Điển hình, các ngân hàng thương mại hiện đại hóa công nghệ đa tiện ích như mobile banking, internet banking, contactless payment, QR code…
Nền tảng Open Banking còn góp phần kết nối và lồng ghép các dịch vụ ngân hàng vào các lĩnh vực của cuộc sống, ví dụ như thanh toán hóa đơn điện, nước, viễn thông, thanh toán trong lĩnh vực y tế, giáo dục, dịch vụ công trực tuyến…
Ngân hàng cũng có thể tạo ra các sản phẩm dịch vụ mang tính cá nhân hóa, từ đó giữ chân khách hàng và tăng lượng khách hàng thân thiết.
Ngoài ra, quyền truy cập vào dữ liệu khách hàng còn hỗ trợ cho việc các ngân hàng chấm điểm tín dụng khách hàng một cách chính xác.
Có thể thấy, ngân hàng mở cho phép các bên thứ ba phát triển các ứng dụng quản lý tài chính cá nhân (PFM) tốt hơn. Do đó, mô hình này thúc đẩy sự cạnh tranh trong ngành Ngân hàng, gây áp lực và buộc các ngân hàng truyền thống phải tăng cường các dịch vụ tài chính của họ hoặc hợp tác với các công ty Fintech.
Trước những lợi ích đó, chuyên gia kinh tế trưởng BIDV, TS. Cấn Văn Lực cho biết, nhiều ngân hàng cũng đã mạnh dạn thiết lập ban đầu mô hình ngân hàng mở của mình theo mô hình bán kèm.
Toàn cảnh Hội thảo |
Về khuôn khổ pháp lý, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 52 (2019) về chủ động tham gia Cách mạng công nghiệp 4.0; Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 749 (6/2020) về chuyển đổi số quốc gia đến năm 2030; NHNN đã ban Thông tư 16/2020/TT-NHNN quy định về mở tài khoản thanh toán của cá nhân bằng phương thức điện tử (eKYC) (12/2020; Quyết định 316 phê duyệt triển khai thí điểm Mobile Money trong 2 năm…
Hiện tại, NHNN cũng trình Thủ tướng Đề án Thanh toán không dùng tiền mặt năm 2021-2025, Quốc hội và Chính phủ cũng chuẩn bị ban hành cơ chế về sandbox, Chính phủ cũng chuẩn bị ban hành chiến lược quốc gia phát triển kinh tế số, xã hội số 2025-2030. Đây là những nền tảng quan trọng cho hoạt động ngân hàng mở trong giai đoạn tới.
Tuy nhiên, ngân hàng mở cũng tồn tại những rủi ro, chủ yếu tập trung vào sự cởi mở của mô hình này. Bởi các đối tác cung cấp các kịch bản hợp tác nhưng có rất ít đầu ra về khả năng cốt lõi để kiểm soát. Vì thế, các ngân hàng đang xem xét và chuẩn bị tốt việc ứng phó với các rủi ro đầu vào, hiệu ứng cộng hưởng và các vấn đề khó đoán định khác. Sự cần thiết phải xây dựng các cơ chế phát hành và cách ly bảo đảm tính bền vững của API đã được đặt ra.
Bên cạnh đó, NHNN đang dần hoàn thiện các khung pháp lý để quản lý hoạt động số hóa, song thực trạng cho thấy hành lang pháp lý cho việc ứng dụng các nền tảng công nghệ mới còn chưa ổn định. Cụ thể như, thông tin dữ liệu khách hàng cấp vĩ mô đang chuẩn hóa nhưng còn thiếu; tỉ lệ giao dịch offline, giao dịch tiền mặt còn cao, đặc biệt ở các khu vực nông thôn ở mức rất cao; nhiều hệ sinh thái được phát triển một cách tự phát và chưa có sự liên thông...
Khắc phục những khó khăn và vướng mắc trên, TS. Nguyễn Quốc Hùng cho rằng, việc đẩy nhanh hoàn thiện hành lang pháp lý liên quan đến áp dụng công nghệ số, hoàn thiện cơ sở dữ liệu thông tin quốc gia thống nhất, cho phép ngân hàng thương mại được khai thác, phục vụ quá trình cung cấp sản phẩm, dịch vụ cho khách hàng là hết sức cần thiết.
Các chuyên gia tại Hội thảo đánh giá sự dịch chuyển mô hình kinh doanh ngân hàng từ hệ sinh thái đóng sang hệ sinh thái mở sẽ là bước đột phá quan trọng mang lại nhiều lợi ích hơn cho nền kinh tế, nhưng những rủi ro, thách thức vẫn đi cùng.
“Thách thức là điều chắc chắn, nhưng đây là xu hướng tất yếu của hoạt động kinh doanh ngân hàng trong thời đại Cách mạng công nghiệp 4.0. Vì vậy, các NHTM Việt Nam cần chủ động, tích cực trong quá trình chuyển đổi để bảo đảm lợi thế cạnh tranh và đáp ứng yêu cầu của lộ trình xây dựng hệ thống ngân hàng số quốc gia. Bên cạnh đó, các cơ quan quản lý cũng cần đẩy nhanh việc hoàn thiện hành lang pháp lý liên quan đến áp dụng công nghệ số trong hoạt động ngân hàng”, TS. Nguyễn Quốc Hùng lưu ý.
TS. Cấn Văn Lực cũng cho rằng vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra đối với ngân hàng số như lợi ích mang đến cho nền kinh tế, khung phát lý, cũng như lộ trình hoàn thiện nên như thế nào. Đặc biệt là và sự chung tay của các bộ, ngành liên quan, của bản thân các trung gian tài chính, khách hàng với ngân hàng mở...
Về phía NHNN, Phó Thống đốc NHNN Phạm Tiến Dũng khẳng định, NHNN cam kết đồng hành cùng với Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, Tiểu ban chính sách công nghệ, các ngân hàng để nghiên cứu cơ chế chính sách cho hoạt động Open Banking, cơ chế chia sẻ dữ liệu… nhằm tạo điều kiện cho Open Banking phát triển thuận lợi.