Nhiều khó khăn trong chuyển đổi nhiên liệu tại các nhà máy nhiệt điện than
Chuyển đổi cần có lộ trình phù hợp
Theo Tuyên bố chính trị thiết lập Quan hệ đối tác chuyền đổi năng lượng công bằng (JETP - Just Energy Transition Partnership) và Việt Nam và các nhóm đối tác quốc tế (IPG) được thông qua vào tháng 12/2022, thời gian đạt phát thải đỉnh của Việt Nam vào năm 2030 và phát thải không quá 170 triệu tấn CO2 vào năm 2030 với sự hỗ trợ mạnh mẽ của quốc tế về công nghệ và tài chính.
Ngày 15/5/2023, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Quy hoạch điện VIII) tại Quyết định số 500/QĐ-TTg. Trong đó quy định về việc định hướng chuyển đổi nhiên liệu sang sử dụng nhiên liệu sinh khối và amoniac với các nhà máy nhiệt điện than đã vận hành 20 năm khi giá thành phù hợp và dừng các nhà máy tuổi thọ trên 40 năm nếu không thể chuyển đổi nhiên liệu.
Để triển khai thực hiện các cam kết nêu trên của Chính phủ Việt Nam tại COP 26 cũng như lộ trình chuyển đổi năng lượng được nêu trong Quy hoạch điện VIII, ngày 12/6, Bộ Công Thương tổ chức cuộc họp với Tập đoàn Điện lực Việt Nam, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam, 3 Tổng công ty phát điện 1,2,3 cùng các chủ đầu tư các nhà máy nhiệt điện đốt than.
Họp bàn cùng các doanh nghiệp để thực hiện các mục tiêu này, Bộ trưởng Bộ Công Thương Nguyễn Hồng Diên nhấn mạnh: “Thực hiện chuyển đổi nhiên liệu than sang nhiên liệu biomass và amoniac cần phải có kế hoạch, lộ trình phù hợp, đảm bảo phát thải CO2 theo lộ trình như đã cam kết của Việt Nam với các đối tác quốc tế, đồng thời phải đảm bảo không ảnh hưởng đến an ninh năng lượng, đảm bảo cung cấp điện cho phát triển kinh tế - xã hội. Do đó, cần nghiên cứu, đánh giá một cách kỹ lưỡng, toàn diện tất cả các tác động trong mọi lĩnh vực để xây dựng chương trình, giải pháp cụ thể đảm bảo thực hiện, không gây bất lợi, thiệt hại cho tất cả các đối tượng khi tham gia chuyền đổi nhiên liệu”.
Bộ trưởng Bộ Công thương họp bàn cùng các doanh nghiệp |
Cuộc họp lần này là dịp để các chủ đầu tư, chủ sở hữu các nhà máy nhiệt điện than không bị động, chủ động đề xuất lên các cấp có thẩm quyền về các cơ chế, chính sách cần có để thực hiện chuyển đổi
Trên cơ sở đó, Bộ Công Thương đề nghị EVN, PVN, TKV và Chủ đầu tư các NMNĐ đốt than nghiên cứu, đánh giá dựa trên các điều kiên thưc tế của từng nhà máy về thời gian vân hành, đặc tính kỹ thuật để đưa ra giải pháp và lộ trình chuyển đổi phù hợp, đáp ứng các yêu cầu nêu trên với các nội dung:
Thứ nhất, nghiên cứu, xây dựng Kế hoạch chuyển đổi nhiên liệu than sang sử dụng nhiên liệu sinh khối và amoniac để triển khai áp dụng khi đủ 20 năm vận hành, đảm bảo hiệu quả kinh tế của nhà máy.
Thứ hai, đối với các nhà máy điện than không thể thực hiện chuyển đổi nhiên liệu hoặc không thu giữ CO2, đề nghị nghiên cứu xây dựng phương án dừng hoạt động khi nhà máy đã vận hành đủ 40 năm.
Nhiều vướng mắc cần được tháo gỡ, hướng dẫn
Tại cuộc họp, Bộ Công Thương cùng chủ đầu tư các nhà máy nhiệt điện than đã thống nhất việc thực hiện lộ trình giảm phát thải carbon trong các lĩnh vực, đặc biệt lĩnh vực năng lượng phù hợp với quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước Việt Nam và phù hợp cam kết của Việt Nam với cộng đồng quốc tế và điều này đã được thể hiện trong Quyết định 500 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt tổng thể Quy hoạch điện VIII.
Tuy nhiên, các Tập đoàn, Tổng công ty, chủ đầu tư các dự án nhiệt điện đốt than cũng chỉ ra những khó khăn, thách thức cũng như các băn khoăn, vướng mắc khi thực hiện công tác chuyển đổi nhiên liệu từ đốt than sang amoniac và nhiên liệu sinh khối (hydrogen xanh).
Cụ thể, đối với các nhà máy nhiệt điện than do EVN quản lý, ông Nguyễn Tài Anh, Phó Tổng giám đốc EVN cho biết, hiện EVN đang quản lý, vận hành 15 nhà máy nhiệt điện than với 36 tổ máy có tổng công suất đặt 12.633 MW, trong đó có 2 tổ máy đã vận hành trên 20 năm với công suất 600 MW, 4 tổ máy đã vận hành xấp xỉ 40 năm với tổng công suất 440 MW, 4 tổ máy vận hành gần 50 năm với tổng công suất 100 MW. Đến năm 2030 có thêm 4 tổ máy vận hành trên 20 năm với tổng công suất 1.230 MW. Hiện EVN đã và đang tiến hành nghiên cứu, thử nghiệm và có kế hoạch chuyển đổi với một số tổ máy của nhà máy như: Uông Bí mở rộng (tổ máy S7), Quảng Ninh (S1,S2) với loại nhiên liệu dự kiến sinh khối/amoniac…
Tuy nhiên cũng theo ông Nguyễn Tài Anh, khó khăn chính là công nghệ đốt trộn amoniac hiện nay trên thế giới chưa hoàn thiện, mới chỉ trong giai đoạn thử nghiệm; chưa có nhà máy nào ở Việt Nam cải tiến, thử nghiệm đồng đốt amoniac và có đánh giá về tính kinh tế, kỹ thuật và các ảnh hưởng tác động đến con người, môi trường và thiết bị.
Chưa kể đến khả năng cung cấp nhiên liệu amoniac/sinh khối trong giai đoạn hiện nay của các đơn vị trong nước và trên thế giới còn hạn chế chưa đảm bảo nguồn nguyên liệu sinh khối, amoniac để vận hành lâu dài và ổn định…
Ông Nguyễn Tài Anh, Phó Tổng giám đốc EVN phát biểu |
Các chủ đầu tư khác như TKV, Tổng Công ty phát điện 1,2,3, đều băn khoăn khi giá biomass trên thị trường cao hơn giá than, trong khi đó chưa có cơ chế chính sách về hỗ trợ giá chuyển đổi cho nhà máy thực hiện đồng sinh khối, amoniac để các nhà máy mở rộng thử nghiệm, tìm kiếm đối tác cung cấp nguyên liệu lâu dài và chất lượng. Việc chuyển đổi nhiên liệu mới có ảnh hưởng đến công nghệ hiện hữu của nhà máy hay không cũng được các doanh nghiệp đặt ra.
Một vấn đề được các chủ dự án nhiệt điện đốt than BOT như: Nghi Sơn 2, Vĩnh Tân 1, Duyên Hải 2 quan tâm là các điều khoản của hợp đồng mua bán điện đã được ký kết… nhưng khi chuyển đổi nhiên liệu giá thành sản xuất sẽ cao hơn giá đã thỏa thuận trong hợp đồng mua bán điện. "Vậy thời gian còn lại của hợp đồng sẽ thực hiện như thế nào, phần chi phí tăng thêm cho chuyển đổi công nghệ, chi phí nhiên liệu chuyển đổi… bên nào phải chịu?" các doanh nghiệp đặt câu hỏi.
Các chủ dự án nhà máy nhiệt điện đốt than cũng đưa ra các khó khăn như: Vướng mắc về các thủ tục cấp phép liên quan, thủ tục môi trường ở Viêt Nam do chưa có quy định cho loại hình mới này; chi phí đầu tư cải tạo, nâng cấp lớn, giá thành sản xuất điện sẽ có xu hướng tăng và tính hiệu quả kinh tế không cao trong khi tuổi thọ các hệ thống, thiết bị đã qua nhiều năm vận hành sẽ ảnh hưởng đến thời giant hu hồi vốn của dự án…
Ông Ngô Trí Thịnh - Tổng Giám đốc Tổng công ty Điện lực -TKV kiến nghị: "Để có thể chuyển đổi thành công nhiên liệu than sang sinh khối và amoniac, TKV kiến nghị Chính phủ, Bộ Công Thương và các cơ quan sớm có lộ trình và các cơ chế, chính sách cụ thể (về quy hoạch vùng nguyên liệu, hỗ trợ tài chính, giá bán điện,...) làm cơ sở để các nhà máy nhiệt điện và các đơn vị liên quan triển khai".
Ghi nhận những khó khăn này của các đơn vị trong việc chuyển đổi nguồn nhiên liệu, song Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên đề nghị các chủ đầu tư, các chủ sở hữu nhà máy nhiệt điện than cần tổ chức, nghiên cứu, quán triệt kỹ trong Hội đồng Thành viên, tập thể lãnh đạo doanh nghiệp của mình để quán triệt tinh thần phải thực hiện.
Trong đó, điều đầu tiên phải làm là xây dựng lộ trình và thể hiện quyết tâm bằng cam kết của mình với Chính phủ Việt Nam thông qua Bộ Công Thương, nỗ lực chuyển đổi năng lượng để giảm phát thải carbon để giúp Việt Nam thực hiện mục tiêu trung hòa carbon vào năm 2050. Những nhà máy có tuổi đời từ 40 năm trở lên sẽ chấm dứt hoạt động, những nhà máy có hoạt động từ 20 năm tuổi trở lên phải chuyển đổi…. Bên cạnh đó, chú trọng tìm hiểu, đề xuất cơ chế, chính sách của các quốc gia, các tổ chức quốc tế, khu vực dựa trên các cam kết, tuyên bố của họ trên các diễn đàn, như Tuyên bố JETP…
Trên cơ sở đó, Bộ Công Thương sẽ tập hợp và có kiến nghị với tổ chức quốc tế. “Việc này cần làm khẩn trương và không trì hoãn, thực hiện báo cáo trước ngày 15/7/2023. Đồng thời nghiên cứu hợp tác và chủ động tìm kiếm các nguồn lực thay thế, các nguồn nhiên liệu thay thế như sinh khối, amoniac” - Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên chỉ đạo.
Đối với cơ quan quản lý cấp Bộ, Bộ trưởng Bộ Công Thương giao Cục Điện lực và Năng lượng tái tạo chủ trì với các đơn vị có liên quan dựa vào những cam kết của các tổ chức quốc tế nghiên cứu, đề xuất để đưa ra một số cơ chế chính sách ban đầu.