Phát triển điện gió: Cần thêm quy định về tác động môi trường và xã hội
Phát triển điện gió cần thêm sự hỗ trợ | |
Quản lý điện gió ngoài khơi và chuỗi cung ứng |
Mục tiêu chiến lược đến năm 2030 và tầm nhìn 2045 là “đưa Việt Nam trở thành quốc gia biển mạnh, trong đó phát triển năng lượng gió ngoài khơi”. Đây là nguồn năng lượng tái tạo đáng tin cậy có thể đáp ứng nhu cầu phát triển năng lượng xanh mà Việt Nam đang theo đuổi.
Ông Phan Xuân Dũng, Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (VUSTA) cho biết, Việt Nam là nước có tiềm năng gió lớn nhất trong bốn nước của khu vực, với hơn 39% tổng diện tích của Việt Nam được ước tính là có tốc độ gió trung bình hàng năm lớn hơn 6m/s ở độ cao 65 m, tương đương công suất 512 GW.
Các nhà đầu tư vẫn chờ một cơ chế giá mới |
Theo Dự thảo Quy hoạch phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến 2045 (Quy hoạch điện VIII) công bố vào tháng 2/2020, Việt Nam đặt mục tiêu phát triển điện gió lên đến 18.6 GW vào năm 2030 và 60.6 GW vào năm 2045. Trong đó mục tiêu phát triển điện gió ngoài khơi là 3-5 GW vào năm 2030, cho thấy điện gió nói chung và điện gió ngoài khơi nói riêng được dự báo sẽ tăng trưởng nhanh và chiếm tỷ trọng đáng kể trong cơ cấu nguồn điện quốc gia của Việt Nam trong tương lai.
Ngay từ năm 2011 xác định điện gió sẽ là thế mạnh của Việt Nam trong dài hạn, Chính phủ Việt Nam đã ban hành Quyết định số 37/2011/QĐ-TTg về cơ chế hỗ trợ phát triển các dự án điện gió tại Việt Nam, tiếp sau đó là quyết định số 39/2018/QĐ-TTg sửa đổi bổ sung một số điều của Quyết định số 37 để đến nay Việt Nam đã có 533 MW điện gió trên bờ và gần bờ, dự kiến con số này sẽ tăng lên 5866 MW vào cuối năm 2021. Còn với dự án điện gió ngoài khơi, cho đến nay chưa có dự án nào được triển khai ở Việt Nam. Hiện trạng này một phần vì còn thiếu một số các quy định và tiêu chuẩn kỹ thuật áp dụng cho điện gió ngoài khơi, trong đó có hướng dẫn chi tiết nội dung đánh giá - kiểm soát môi trường và xã hội, Chủ tịch Phan Xuân Dũng nhấn mạnh.
Để góp phần thay đổi nhận thức, tạo sự đồng thuận cao trong xã hội về một nền kinh tế xanh - năng lượng xanh, cũng như thu hút các nhà đầu tư hàng đầu thế giới về điện gió ngoài khơi, có lẽ Dự thảo Quy hoạch điện VIII cần đưa ra định nghĩa cụ thể cho điện gió ngoài khơi phù hợp với điều kiện, đặc điểm địa lý của Việt Nam, phân biệt rõ giữa điện gió ngoài khơi và điện gió gần bờ để xây dựng, áp dụng cơ chế, thể chế chính sách cho sát, đánh giá đúng lợi ích bao trùm của điện gió ngoài khơi, ngoài các mục tiêu về kinh tế, xã hội, môi trường, quốc phòng an ninh... thì còn liên quan đến quản lý tổng thể tài nguyên biển quốc gia, đến thực hiện chủ quyền, quyền tài phán quốc gia trên thềm lục địa, vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam theo luật pháp quốc tế.
Tua-bin gió được xây dựng với mục đích sử dụng gió tự nhiên để chuyển thành điện năng, được đặt trên đất liền và gần bờ/ngoài khơi. Yếu tố chính khi xác định tính khả thi và khả năng tồn tại của một địa điểm xây dựng nhà máy điện gió là địa điểm đó cần phải có không chỉ nguồn gió tốt, cho sản lượng điện phát tốt và nguồn thu từ sản lượng đó. Còn cần các yếu tố quan trọng khác gồm: tác động môi trường và xã hội, chi phí xây dựng và vận hành, đạt thỏa thuận bán điện ở mức giá hợp lý về mặt thương mại và khả năng nối lưới với công suất thích hợp.
Một nghiên cứu về tác động của các công trình điện gió lên môi trường xung quanh của các chuyên gia quốc tế, điện gió gần bờ có nguy cơ cao hơn về các tác động xấu đến môi trường và xã hội, đặc biệt là về đa dạng sinh học do sự hiện diện của các loài bị đe dọa toàn cầu ở dải ven biển và gần các sinh cảnh nhạy cảm hoặc được bảo vệ. Các dự án điện gió chiếm dụng nhiều diện tích biển nên có thể chồng lấn với các hoạt động khác như: dầu khí, cáp viễn thông, hoặc ảnh hưởng môi trường sống của các loài chim biển, tôm cá, san hô…
Bà Cao Thu Yến, đại diện Sáng kiến về Chuyển dịch năng lượng Việt Nam cho biết, khi rà soát các văn bản pháp luật của Việt Nam liên quan đến đánh giá tác động môi trường, những quy định về khảo sát dự án vẫn còn vắn tắt, ngắn gọn và không có hướng dẫn chi tiết cụ thể. Khi xét duyệt dự án, dù đã có các khung hướng dẫn tổng quát về báo cáo đánh giá tác động môi trường, song ở mặt sinh thái và xã hội vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể, khiến cho các báo cáo đánh giá tác động môi trường trong nước còn lệch pha so với tiêu chuẩn quốc tế; đặc biệt chưa có hướng dẫn riêng cho lĩnh vực điện gió ngoài khơi.
Các chuyên gia cũng đồng tình rằng, cần có các tiêu chuẩn để đánh giá tác động môi trường một cách rõ ràng, chi tiết, hướng dẫn cụ thể, sự vào cuộc quản lý và giám sát của cơ quan chức năng là rất quan trọng, sẽ giúp nhà nước sàng lọc các dự án không tiềm năng, ảnh hưởng bất lợi đến môi trường sinh thái, đánh bắt thủy sản…
Việc triển khai thực hiện đồng loạt các công trình xây lắp, trang thiết bị cơ khí, vận tải siêu trường siêu trọng và hàng hải đã tạo ra hàng vạn việc làm, kích thích dòng vốn đầu tư trong và ngoài nước, góp phần nâng cao trình độ nguồn nhân lực, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội, phát triển kinh tế xanh. Cùng với năng lực và kinh nghiệm triển khai các công trình biển và hệ thống logistics phụ trợ của ngành dầu khí, Việt Nam hoàn toàn có cơ sở phát triển đồng loạt gắn liền với dịch vụ logistics.