Tái khởi động nền kinh tế thời hậu dịch
Đại dịch Covid-19 cho thấy sức chống chịu của nền kinh tế đã gia tăng | |
Quyết liệt các giải pháp hỗ trợ người dân, doanh nghiệp | |
Hàng loạt giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp |
TS. Cấn Văn Lực |
Thời gian qua, trước tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19, cả hệ thống chính trị, các tổ chức, DN và hệ thống ngân hàng Việt Nam đã vào cuộc quyết liệt, kiểm soát cơ bản được dịch bệnh, từng bước tháo gỡ khó khăn cho nền kinh tế. Thời gian tới, ngành Ngân hàng nói riêng và các bộ, ngành quan trọng của Chính phủ cần có chính sách hỗ trợ ra sao để tái khởi động, tạo sức bật tốt hơn cho nền kinh tế thời hậu dịch Covid-19.
Phóng viên Thời báo Ngân hàng đã phỏng vấn TS. Cấn Văn Lực - Thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ quốc gia để tìm ra câu trả lời thỏa đáng liên quan đến những vấn đề lớn đặt ra đối với nền kinh tế thời gian tới.
Ông đánh giá thế nào về những công cụ chính sách hỗ trợ của hệ thống ngân hàng đối với nền kinh tế trong thời gian vừa qua?
Có thể nói ngành Ngân hàng đã rất chủ động, quyết liệt, có nhiều chính sách, công cụ hỗ trợ quan trọng đối với DN, hộ gia đình và nền kinh tế. Đơn cử ngày 16/3/2020, NHNN đã giảm đồng loạt các mức lãi suất điều hành. Đây là một trong các giải pháp kịp thời nhằm hỗ trợ thanh khoản, giúp các TCTD giảm chi phí vốn đầu vào, từ đó gián tiếp giảm lãi suất cho vay khách hàng. Một chính sách quan trọng nữa là NHNN đã ban hành Thông tư 01/2020/TT-NHNN quy định về việc TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng do Covid-19.
Trên cơ sở chỉ đạo quyết liệt của NHNN, các TCTD đã tích cực thực hiện cơ cấu lại nợ, giữ nguyên nhóm nợ, miễn lãi phạt, giảm lãi vay đối với dư nợ hiện hữu, cho vay mới với lãi suất thấp hơn thông thường. Đến nay, tổng quy mô các gói tín dụng cho vay mới mà các TCTD cam kết đã lên đến khoảng 600 nghìn tỷ đồng. Ngoài ra, các phí dịch vụ như thanh toán, chuyển tiền cũng được hệ thống ngân hàng giảm sâu…
Cùng với gói hỗ trợ tài khóa, gói an sinh xã hội và chính sách kinh tế khác, các chính sách về tiền tệ là rất cần thiết, mang lại sự hỗ trợ thiết thực cho người dân và DN. Tuy nhiên, ở chiều ngược lại, bản thân các TCTD lại phải đối mặt với nguy cơ nợ xấu và giảm thu nhập hoạt động.
Ông có thể lượng hóa cụ thể hơn chi phí của các giải pháp hỗ trợ và tác động của đại dịch Covid-19 đối với thu nhập ngành Ngân hàng?
Ta có thể chia chi phí mà hệ thống TCTD đảm nhận thành 2 phần. Phần 1 gồm các chi phí trực tiếp khi các TCTD triển khai các chính sách hỗ trợ giãn-hoãn nợ, giảm lãi, miễn phí cho người dân, doanh nghiệp. Phần 2 là chi phí gián tiếp khi thu nhập của các TCTD bị giảm do tác động tiêu cực từ dịch bệnh.
Đối với phần hỗ trợ trực tiếp, ước tính tổng thu nhập của các TCTD năm 2020 sẽ giảm từ 17.700 đến 21.800 tỷ đồng với 4 thành tố chính.
Thứ nhất đến từ việc giảm lãi suất 0,5-1,5% đối với dư nợ hiện hữu. Theo NHNN, có khoảng 2 triệu tỷ đồng dư nợ chịu ảnh hưởng bởi dịch Covid-19. Ước tính việc giảm lãi suất cho vay sẽ khiến cho thu nhập của hệ thống ngân hàng có thể giảm khoảng 11.475 tỷ đồng.
Thứ hai là giảm lãi suất với các khoản vay mới. Theo số liệu được công bố, đến ngày 17/4/2020, tổng quy mô các giải pháp hỗ trợ tín dụng mà các TCTD cam kết cho vay mới lên đến khoảng 600 nghìn tỷ đồng; lãi suất ưu đãi hơn so với thông thường từ 1-2,5%/năm. Giả định toàn bộ quy mô chính sách nói trên được giải ngân hết trong năm 2020 và các TCTD có thể được NHNN hỗ trợ tái cấp vốn ở quy mô vừa phải, khi đó ước tính mức giảm thu nhập có thể từ 2.430 tỷ đồng đến 6.075 tỷ đồng.
Thứ ba là cơ cấu lại nợ, giữ nguyên nhóm nợ và không tính lãi phạt. Mức lãi phạt sẽ phụ thuộc nhiều vào thời gian quá hạn của từng khoản vay. Tuy nhiên, nếu ước tính sơ bộ, mức giảm thu nhập có thể lên đến 3.500 tỷ đồng.
Thứ tư là miễn hoặc giảm phí chuyển tiền, thanh toán. Sau động thái giảm phí của NAPAS, các TCTD cũng đồng loạt miễn hoặc giảm phí chuyển tiền nhanh liên ngân hàng. Ước tính số tiền phí các TCTD sẽ hỗ trợ khách hàng khoảng 800 tỷ đồng.
Còn đối với phần tác động gián tiếp, ước tính tổng thu nhập năm 2020 của các TCTD sẽ bị giảm khoảng 13 ngàn tỷ đồng với 2 thành tố chính.
Một là giảm thu nhập từ lãi do tín dụng tăng trưởng thấp. Dự kiến tăng trưởng tín dụng năm 2020 khoảng 11%, thấp hơn so mục tiêu từ đầu năm (14%). Theo đó, mức giảm thu nhập từ lãi sẽ khoảng 5.500 tỷ đồng.
Hai là tăng trích lập dự phòng rủi ro tín dụng do nợ xấu tăng. Theo NHNN, với kịch bản dịch Covid-19 tại Việt Nam được kiểm soát trong quý II, tỷ lệ nợ xấu gộp cuối năm 2020 là 3,7%, thậm chí có thể lên đến 4%. Mức này cao hơn 0,7-1 điểm phần trăm so với mục tiêu trước đây (khoảng 3% đến cuối năm 2020). Nợ xấu tăng đồng nghĩa phải tăng trích lập dự phòng rủi ro tín dụng để xử lý và giảm thiểu rủi ro. Giả định các TCTD sẽ trích lập dự phòng trong 4 năm tiếp theo để tránh tác động đột ngột đối với hoạt động kinh doanh, khi đó con số tăng trích lập dự phòng rủi ro tín dụng năm 2020 có thể lên tới 7.000 - 8.000 tỷ đồng.
Ngoài ra, thu nhập của các TCTD còn có thể giảm hơn so với kỳ vọng do khó khăn trong xử lý nợ xấu; hạn chế từ nguồn thu nợ ngoại bảng, các khoản thu nhập bất thường do tình hình kinh tế khó khăn… Nhất là từ phần lãi dự thu phải chuyển hạch toán ngoại bảng nếu thực hiện theo quy định tại Thông tư 01. Theo Thông tư này, “đối với dư nợ cơ cấu giữ nguyên nhóm 1, TCTD không hạch toán thu nhập (dự thu)”. Trong khi đó, việc cơ cấu nợ có thể phải thực hiện trong thời gian dài, nhất là các khoản vay trung dài hạn, khiến cấu phần lãi dự thu không được hạch toán thu nhập của các TCTD là tương đối lớn; có thể lên đến hàng chục ngàn tỷ đồng.
Tính tổng thể, thu nhập hoạt động của các TCTD năm 2020 có thể bị giảm khoảng 30-34 nghìn tỷ đồng. Tôi thấy rằng, đây là mức khá cao, tương đương giảm 20-25% thu nhập so với kế hoạch kinh doanh ban đầu. Mức này là chưa tính đến khoản thu nhập bị giảm do không được hạch toán lãi dự thu như tôi nêu trên.
Như ông đã nói, việc thực hiện các chính sách hỗ trợ DN khiến các TCTD đang đối mặt với những khó khăn. Vậy, cần phải hỗ trợ các TCTD như thế nào để duy trì hoạt động ổn định, phát triển?
Theo tôi, trước mắt, NHNN nên xem xét sửa đổi Thông tư 01 theo hướng: đối với khoản vay có nhiều kỳ hạn trả nợ, cho phép TCTD chủ động xem xét cơ cấu lại thời hạn trả nợ đối với toàn bộ khoản vay, thay vì chỉ số dư nợ đến hạn trả nợ trong thời gian diễn ra dịch bệnh như hiện nay vì hiện tại chưa rõ khi nào sẽ thực sự chấm dứt dịch. Điều này dẫn tới một khoản nợ, nhất là trung dài hạn phải cơ cấu lại nhiều lần, tăng thủ tục hành chính. Hướng hỗ trợ tiếp là NHNN cho phép các TCTD được hạch toán lãi dự thu đối với các khoản vay cơ cấu nợ (nhưng giữ nguyên nhóm 1) ngay sau đợt đầu khách hàng trả đầy đủ nợ gốc và lãi theo thời hạn được cơ cấu lại. NHNN quy định cụ thể hơn về tiêu chí ngành nghề, đối tượng khách hàng được hỗ trợ để các TCTD nhất quán thực hiện.
Điểm nữa, theo tôi nên xem xét tăng cường cho vay tái cấp vốn đối với các TCTD. Dù không được nhiều, nhưng cũng góp phần giảm chi phí đầu vào cho các TCTD. NHNN cũng nên xem xét chấp thuận cho các TCTD giãn lộ trình kiểm soát tỷ lệ dư nợ/tổng vốn huy động (LDR) trong năm 2020. Theo Thông tư 22/2019/TT-NHNN quy định về các giới hạn, tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của các TCTD, các NHTMCP nhà nước (NHTMNN) cần có lộ trình giảm tỷ lệ LDR về mức 85% trước 1/1/2022 (quy định cũ là 90%). Đây cũng là một phương án để giúp hỗ trợ, tiết giảm chi phí đầu vào cho các NHTMNN, vốn có vai trò đầu tàu trong thực thi các chính sách của Chính phủ và NHNN.
Song song với đó, cần thúc đẩy hoàn thiện hành lang pháp lý trong quá trình xây dựng và thực hiện các gói hỗ trợ cũng như phát triển kinh tế số, ngân hàng số, nhất là thanh toán không dùng tiền mặt, Fintech, cho vay ngang hàng, dịch vụ tiền di động (Mobile money) và mô hình kinh doanh mới khác, để tạo điều kiện cho hệ thống ngân hàng bắt nhịp kinh tế số, gia tăng thu nhập từ dịch vụ và hỗ trợ người dân, DN cả trong phòng chống dịch bệnh do giảm thiểu tiếp xúc trực tiếp.
Cuối cùng, không chỉ về phía NHNN mà bản thân các TCTD cũng cần nỗ lực để cải thiện hoạt động kinh doanh thông qua đa dạng hóa nguồn thu để giảm sự phụ thuộc vào tín dụng, tập trung phát triển các sản phẩm, dịch vụ mới. Khi triển khai các chương trình giảm lãi suất, gói tín dụng ưu đãi, cần linh hoạt, đơn giản hóa quy trình, ứng dụng CNTT để đẩy nhanh thủ tục. Tuy nhiên, TCTD cần kiên quyết không hạ chuẩn tín dụng để duy trì tính lành mạnh của hoạt động ngân hàng không chỉ trước mắt mà còn lâu dài. Đồng thời, các TCTD cần tích cực truyền thông, trao đổi để khách hàng hiểu, thiện chí hợp tác và cùng đồng hành vượt qua khó khăn.
Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia và DN, phát triển thị trường tiêu thụ trong nước |
Chúng ta đang bước vào giai đoạn “sống chung an toàn” với dịch Covid-19. Vậy ông có gợi ý chính sách gì nhằm tạo sức bật tốt hơn cho nền kinh tế?
Theo tôi, trước mắt có 8 giải pháp ưu tiên thực hiện ngay trong năm nay.
Thứ nhất, nhiệm vụ ưu tiên số 1 hiện nay vẫn phải là phòng chống dịch Covid-19 hiệu quả. Giai đoạn hiện nay, dịch bệnh tại Việt Nam đã phần nào được kiểm soát, các biện pháp giãn cách xã hội được nới lỏng hơn. Tuy nhiên, các cơ quan, ban ngành, DN và người dân vẫn cần hết sức cẩn trọng, không chủ quan. Việc nới lỏng cách ly xã hội cần có lộ trình, phân nhóm phù hợp, và gắn chặt với việc khôi phục, phát triển kinh tế - xã hội… Làm tốt điều này chính là góp phần quan trọng ổn định kinh tế - xã hội và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Thứ hai, triển khai nhanh, đồng bộ và hiệu quả các gói hỗ trợ tài khóa, tiền tệ - tín dụng và an sinh xã hội nhằm mang lại hiệu quả cao nhất. Do đây là vấn đề mới nên các hướng dẫn thực hiện cần được cụ thể, rõ ràng, đảm bảo nhất quán thực hiện, công khai, minh bạch. Để làm được điều này, nên tăng cường ứng dụng CNTT nhằm giảm thiểu thủ tục hành chính và tăng tốc độ xử lý. Đồng thời, cần có sự vào cuộc đồng bộ của các bộ, ngành, địa phương và các bộ máy đoàn thể cùng với các biện pháp giám sát, hậu kiểm đảm bảo đúng và trúng đối tượng, hạn chế tối đa hiện tượng trục lợi chính sách.
Thứ ba, đẩy nhanh tiến độ giải ngân đầu tư công. Nhất là các công trình trọng điểm quốc gia như là một giải pháp bù đắp thiếu hụt động lực tăng trưởng trong năm 2020 và cũng là động lực tăng trưởng dài hạn. Theo tính toán của chúng tôi, nếu Việt Nam giải ngân hết số vốn đầu tư công theo kế hoạch là 700.000 tỷ đồng sẽ giúp GDP Việt Nam năm 2020 tăng trưởng thêm 1,44 điểm %.
Thứ tư, đẩy mạnh kích cầu thị trường nội địa. Quy mô tiêu dùng cá nhân (bán lẻ) của Việt Nam tương đương gần 82% GDP và đóng góp 11,87% GDP năm 2019. Theo đó, nếu tiêu dùng cá nhân tăng 1%, thì sẽ giúp GDP năm 2020 tăng thêm 0,11 điểm %.
Thứ năm, thúc đẩy mạnh mẽ khối kinh tế tư nhân (cả DN tư nhân và hộ kinh doanh cá thể, đóng góp gần 40% GDP năm 2019). Điều này cũng phù hợp với định hướng tập trung khai thác, nâng cao năng lực cạnh tranh của thị trường nội địa. Tôi tính toán sơ bộ, nếu đầu tư tư nhân (chưa tính đến hộ kinh doanh cá thể) tăng 1% so với năm 2019, sẽ giúp GDP Việt Nam năm 2020 tăng trưởng thêm 0,16 điểm %.
Thứ sáu, bản thân các TCTD cũng như DN, cần nghiên cứu cẩn trọng xu hướng phục hồi thị trường sau dịch bệnh để khai thác tối đa cơ hội, nhất là mảng logistics, bán lẻ. Đồng thời, tăng cường ứng dụng CNTT, phát triển các mô hình kinh doanh mới trên nền tảng công nghệ và phù hợp với thị hiếu mới của khách hàng. Tập trung làm tốt điều này sẽ giúp vừa tăng năng suất lao động, giảm thiểu chi phí, vừa đáp ứng nhu cầu khách hàng tốt hơn.
Thứ bảy, nghiên cứu và cập nhật kịch bản phát triển kinh tế - xã hội năm 2020; bao gồm những chính sách, biện pháp để khôi phục lại sản xuất, kinh doanh của các DN, người dân ngay sau khi dịch bệnh được kiểm soát tại Việt Nam. Chính phủ có thể cân nhắc thành lập Ban chỉ đạo phục hồi kinh tế sau dịch bệnh, giúp việc cho Chính phủ để đưa ra đề xuất phương án tối ưu giữa phòng chống dịch bệnh và khôi phục các hoạt động kinh tế - xã hội.
Cuối cùng, cần tiếp tục đẩy mạnh tái cơ cấu nền kinh tế (nhất là ba trụ cột đã xác định); tập trung nhiều hơn vào các yếu tố chất lượng, sáng tạo, bao trùm và bền vững. Trong đó ưu tiên phát triển công nghiệp hỗ trợ. Đây là cơ sở để Việt Nam làm chủ một số yếu tố đầu vào, phần nào hạn chế nhập khẩu. Hơn nữa, sẽ giúp tăng tính chủ động trong nhiều tình huống khác nhau, vừa tạo việc làm lại tăng khả năng kết nối giữa các khối DN. Ngoài ra, cần đẩy mạnh tái cơ cấu nông nghiệp một cách hiệu quả, lâu dài gắn kết chặt chẽ với phát triển nông thôn mới, hợp tác xã kiểu mới và quá trình đô thị hóa. Cùng với đó, nâng cao khả năng chống chịu của nền kinh tế đối với các cú sốc từ bên ngoài nhờ nâng cao năng lực cạnh tranh của quốc gia và DN, năng lực sản xuất và phát triển thị trường tiêu thụ trong nước.
Xin cảm ơn ông đã trả lời phỏng vấn!