![]() |
Khắc phục hạn chế, bất cập thị trường lao động |
![]() |
Cuối năm 2022, thị trường lao động khó khăn hơn |
Tỷ lệ thất nghiệp giảm mạnh
Tại buổi họp báo “Tình hình lao động việc làm quý IV và năm 2022” tổ chức ngày 10/1/2023, Phó tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê Nguyễn Trung Tiến cho biết, thị trường lao động vẫn có nhiều điểm sáng: Lực lượng lao động, số người có việc làm và thu nhập của người lao động đều tăng, trong khi tỷ lệ thất nghiệp, tỷ lệ thiếu việc làm và tỷ lệ lao động phi chính thức có xu hướng giảm.
“Điều này cho thấy dưới sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt của Chính phủ và cả hệ thống chính trị, nền kinh tế Việt Nam nói chung và thị trường lao động nói riêng năm 2022 đang từng bước phục hồi”, ông Nguyễn Trung Tiến nói.
Cụ thể, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên năm 2022 đạt 51,7 triệu người, cao hơn 1,1 triệu người so với năm 2021. Lực lượng lao động đã qua đào tạo từ trình độ sơ cấp trở lên năm 2022 ước tính là 13,5 triệu người, chiếm 26,2%, tăng 0,1%. Lao động từ 15 tuổi trở lên có việc làm là 50,6 triệu người, tăng 1,5 triệu người, trong đó, lao động có việc làm ở khu vực thành thị là 18,6 triệu người (tăng 877,3 nghìn người), lao động ở khu vực nông thôn là 31,9 triệu người (tăng 627,2 nghìn người). Lao động trong khu vực công nghiệp và xây dựng là 17 triệu người (chiếm 33,6%), tăng 724,6 nghìn người so với năm 2021; khu vực dịch vụ được ghi nhận có sự tăng mạnh và đạt 19,7 triệu người (chiếm 38,9%), tăng 1,1 triệu người; lao động làm việc trong khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản giảm 352,7 nghìn người, đạt mức 13,9 triệu người (chiếm 27,5%, qua đó đạt mục tiêu giảm tỷ trọng lao động trong nông nghiệp trong tổng số lao động xã hội xuống 27,5% như Nghị quyết số 01/NQ-CP năm 2022 đặt ra).
![]() |
Ảnh minh họa. |
Thu nhập bình quân tháng của người lao động năm 2022 là 6,7 triệu đồng/người/tháng, tăng 927 nghìn đồng so với năm 2021 và tăng 759 nghìn đồng so với cùng kỳ năm 2019. Trong đó, thu nhập của lao động làm việc trong khu vực công nghiệp và xây dựng tăng mạnh nhất, tăng 17,6% (tương ứng tăng 1,1 triệu đồng/người/tháng); lao động làm việc trong ngành dịch vụ tăng 15,4% (tương ứng tăng 1 triệu đồng/người/tháng); lao động làm việc trong ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 9,8% (tương ứng tăng 448 nghìn đồng/người/tháng).
Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi năm 2022 là 2,21%, giảm 0,89% so với năm trước. Tỷ lệ thiếu việc làm ở khu vực thành thị thấp hơn khu vực nông thôn (tương ứng là 1,70% và 2,51%). Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động năm 2022 là 2,32%, giảm 0,88% so với năm trước.
Nguy cơ thiếu việc làm tăng
Tuy nhiên bước sang quý IV/2022, sự phục hồi của thị trường lao động chậm dần, khá đồng điệu với những diễn biến kinh tế chung cũng như trong các khu vực và dữ liệu hoạt động kinh tế giảm sút khác. Tuy số người có việc làm và thu nhập bình quân của người lao động trong quý IV tiếp tục tăng so với quý trước và cùng kỳ năm 2021 nhưng tỷ lệ thất nghiệp, tỷ lệ thiếu việc làm và tỷ lệ lao động phi chính thức đều tăng lên so với quý trước.
Theo ông Phạm Hoài Nam - Vụ trưởng Vụ Thống kê Dân số và Lao động, Tổng cục Thống kê, lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên trong quý IV/2022 là 52,1 triệu người, cao nhất trong vòng 2 năm trở lại đây, tăng gần 0,3 triệu người so với quý trước và tăng gần 1,4 triệu người so với cùng kỳ 2021. Tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ quý IV là 26,4%, cao hơn 0,3% so với cùng kỳ 2021. Lao động từ 15 tuổi trở lên có việc làm trong quý là 51 triệu người, tăng gần 2 triệu người so với cùng kỳ 2021. Trong khi đó, tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi quý IV là 1,98%, tăng 0,06% so với quý trước và giảm 1,39% so với cùng kỳ 2021.
![]() |
Số người và tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động theo quý, 2020-2022 (Tổng cục Thống kê) |
Nhằm góp phần duy trì sự ổn định và phát triển thị trường lao động, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập sâu rộng, thực chất, hiệu quả trong thời gian tới, Thủ tướng Chính phủ đã có Công điện số 1170/CĐ-TTg về các biện pháp ổn định, phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiệu quả, bền vững và chăm lo đời sống người lao động.
Nhằm góp phần duy trì sự ổn định và phát triển thị trường lao động, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập sâu rộng, thực chất, hiệu quả trong thời gian tới, Thủ tướng Chính phủ đã có Công điện số 1170/CĐ-TTg về các biện pháp ổn định, phát triển thị trường lao động linh hoạt, hiệu quả, bền vững và chăm lo đời sống người lao động. |
Ông Phạm Hoài Nam cho biết, mặc dù tình hình thiếu việc làm của người lao động giảm so với cùng kỳ 2021, tuy nhiên khác với xu hướng các năm trước đây (khi chưa chịu ảnh hưởng nặng nề bởi dịch Covid-19), quý IV hàng năm thường là thời điểm các doanh nghiệp và người lao động triển khai tăng ca, nên tỷ lệ thiếu việc làm trong quý IV thường có xu hướng thấp nhất trong năm, thì riêng năm 2022, tỷ lệ ở quý IV bị đẩy cao hơn so với quý III.
Cụ thể số người thất nghiệp trong độ tuổi lao động quý IV/2022 là hơn 1,08 triệu người, tăng 24,9 nghìn người so với quý III và giảm 520 nghìn người so với cùng kỳ 2021. Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động trong quý IV là 2,32%, tăng 0,04% so với quý trước dù vẫn giảm 1,24% so với cùng kỳ 2021.
Lý giải về tình hình thất nghiệp tăng lên trong quý IV vừa qua, ông Nam cho biết, trước biến động của thị trường quốc tế và trong nước, những tháng cuối năm 2022 một số doanh nghiệp, đặc biệt trong lĩnh vực dệt may, da giày, chế biến gỗ… đã gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh, bị cắt giảm đơn hàng, dẫn đến phải cắt giảm việc làm. Đây là diễn biến trái chiều so với quy luật thông thường khi những tháng cuối năm thị trường lao động sẽ sôi động hơn để phục vụ kế hoạch mở rộng sản xuất kinh doanh cuối năm.
Để thị trường lao động phục hồi bền vững, bảo đảm cuộc sống cho người lao động, Tổng cục Thống kê đề xuất một số giải pháp. Trong đó, cần tiếp tục triển khai hiệu quả các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp và người lao động, phát động các chương trình kích cầu nội địa, hỗ trợ xúc tiến thương mại, tìm kiếm khai thác thị trường mới, đơn hàng mới cho doanh nghiệp. Đồng thời, tiếp tục hoàn thiện hệ thống quản trị thị trường lao động phù hợp, kết nối với cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và các cơ sở dữ liệu khác làm cơ sở xây dựng và tổ chức triển khai kịp thời, hiệu quả kết nối cung cầu lao động, việc làm, an sinh xã hội. Đẩy mạnh thực hiện các giải pháp phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao; sắp xếp, tổ chức, cơ cấu lại và nâng cao chất lượng đào tạo của các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, bảo đảm cung cấp đủ lao động có kỹ năng nghề đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội; Tiếp tục thực hiện chính sách hỗ trợ đào tạo, đào tạo lại cho người lao động để duy trì việc làm.
Đỗ Phạm
Nguồn: