Thủy sản nỗ lực để phát triển bền vững
Tác động của “thẻ vàng” đối với thủy sản
Theo đại diện Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (VASEP), khi bị cảnh báo “thẻ vàng”, từ năm 2016 đến năm 2021 doanh số xuất khẩu thủy sản tăng lên nhưng tăng trưởng lại đi xuống “là một vấn đề”. Sản lượng xuất khẩu giảm bình quân 6% ở năm thứ nhất và 9% ở năm thứ hai sau khi bị thẻ vàng. Các thị trường bị ảnh hưởng nhiều nhất gồm Đức, Pháp, Ý và Tây Ban Nha.
Bà Lê Hằng, Phó Giám đốc Trung tâm VASEP.PRO chia sẻ, từ năm 2017 đến năm 2019 xuất khẩu thủy sản Việt Nam đã bị sụt giảm đáng kể, giảm 12% tương đương 183,5 triệu USD. Trong đó, tổng kim ngạch xuất khẩu hải sản giảm trên 10%, tương đương giảm 43 triệu USD. Xu hướng này tiếp tục kéo dài hơn nữa vào cuối năm 2020, đặc biệt trong bối cảnh Covid-19 đã ảnh hưởng đến hoạt động khai thác cũng như chứng nhận khai thác đối với nguyên liệu hải sản xuất khẩu sang EU. Theo ước tính, ngành khai thác thủy sản của Việt Nam, bao gồm cá ngừ, cá kiếm, nhuyễn thể và các loài khác, sẽ mất khoảng 387 triệu USD mỗi năm từ thị trường EU.
Ngư dân cần khai thác thủy sản theo quy định |
Bà Nguyễn Thị Thu Sắc, Phó Chủ tịch VASEP cho biết, những năm qua, thủy sản Việt Nam đã phát triển thành ngành công nghiệp chế biến với giá trị xuất khẩu lên tới gần 9 tỷ USD. EU là đối tác thương mại quan trọng cũng là thị trường xuất khẩu thủy sản lớn của Việt Nam, có vai trò định hướng, mở đường cho thủy sản Việt Nam vươn ra thị trường thế giới. Trong 20 năm qua, xuất khẩu thủy sản Việt Nam vào EU đã tăng trưởng mạnh từ 90 triệu USD năm 1999, lên 1,5 tỷ USD vào năm 2017 nhưng từ khi bị thẻ vàng khai thác hải sản bất hợp pháp, không khai báo và không theo quy định (IUU), kim ngạch xuất khẩu ngày càng sụt giảm.
Ngành khai thác hải sản Việt Nam chủ yếu tổ chức ở quy mô nhỏ, hầu hết các tàu có công suất nhỏ, ngư dân hoạt động riêng lẻ, đánh bắt ven bờ, năng suất thấp, khai thác đa loài. Hiện nay vẫn còn ngư dân chưa nghiêm túc thực hiện quy định lắp đặt thiết bị giám sát hành trình, kiểm tra tàu cá ra, vào cảng chưa chặt chẽ, thông tin khai báo thiếu tin cậy liên quan trực tiếp đến quy định khai thác hợp pháp, có khai báo và tuân thủ quy định của EC. Đây cũng là mối đe dọa đối với mục tiêu phát triển nghề cá bền vững, có trách nhiệm trong chiến lược phát triển ngành chế biến, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam, bà Nguyễn Thị Thu Sắc cho biết thêm.
Đồng hành chống khai thác trái phép
Theo Tổng cục Thuỷ sản, tính đến nay tròn 4 năm Việt Nam bị cảnh báo thẻ vàng đối với sản phẩm hải sản khai thác của Việt Nam xuất khẩu vào châu Âu vì chưa tuân thủ đầy đủ các quy định về IUU. Từ thời điểm bị cảnh báo thẻ vàng IUU, các doanh nghiệp hải sản Việt Nam với sự hỗ trợ của Chính phủ đã triển khai chương trình doanh nghiệp hải sản cam kết chống khai thác thác IUU, tập trung vào các hoạt động đề xuất góp ý, đẩy mạnh truyền thông trong chuỗi khai thác, thu mua, chế biến, xuất khẩu hải sản.
Ông Nguyễn Hoài Nam, Phó Tổng Thư ký VASEP cho biết, từ tháng 1/2018, toàn bộ các doanh nghiệp hải sản đồng loạt treo “Bản cam kết chống khai thác IUU” song ngữ Việt - Anh tại các nhà máy của doanh nghiệp. Đồng thời có nhiều văn bản, báo cáo, góp ý các vướng mắc của doanh nghiệp gửi lên Thủ tướng và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, VASEP đề xuất hành động chống khai thác IUU. Các doanh nghiệp cùng với VASEP phối hợp với Chi cục Thủy sản Cà Mau tổ chức Hội nghị đối thoại giữa ngư dân, doanh nghiệp, cơ quan quản lý nhà nước…
Tuy nhiên, cho đến nay vẫn còn tình trạng tàu cá vi phạm khi khai thác và cần phải nhanh chóng giải quyết nếu không EC sẽ không gỡ thẻ vàng IUU, thậm chí có thể tăng lên thẻ đỏ. Theo đại diện Tổng cục Thủy sản, từ đầu năm đến nay đã xử lý hơn 1.500 trường hợp tàu cá Việt Nam vi phạm vùng biển nước ngoài, không lắp giám sát hành trình, thiết bị mất kết nối với số tiền xử phạt lên đến hơn 12 tỷ đồng.
Tình hình tàu cá vi phạm vùng biển các nước trong khu vực như Indonesia, Malaysia, Thái Lan... tuy có giảm so với trước nhưng chưa vững chắc. Bên cạnh đó, công tác chứng nhận, xác nhận nguồn gốc thủy sản tại nhiều địa phương còn hạn chế, chưa đảm bảo được độ tin cậy trong công tác truy xuất nguồn gốc thủy sản như các tỉnh Quảng Ngãi, Quảng Nam, Quảng Trị, Thái Bình, Quảng Ninh, Thanh Hóa, Nghệ An, Tiền Giang… Việc kiểm soát hàng thủy sản nhập khẩu mới chỉ tập trung làm tốt công tác kiểm dịch, còn việc thanh kiểm tra theo quy định của Hiệp định về biện pháp quốc gia có cảng để đảm bảo việc kiểm soát hàng thủy sản nhập khẩu vào Việt Nam là sản phẩm hợp pháp vẫn chưa làm đúng theo yêu cầu.
Các doanh nghiệp dù cố gắng tuân thủ cam kết theo quy định IUU nhưng trên thực tế doanh nghiệp thu mua hải sản rất khó xác định tàu cá đó có vi phạm IUU hay không vì không có đủ cơ sở dữ liệu đáng tin cậy. Nhiều trường hợp doanh nghiệp thu mua hải sản về sản xuất rồi mới biết tàu cá vi phạm quy định IUU.
Để giải quyết vấn đề trên, Việt Nam cần thực hiện các biện pháp mạnh, đồng bộ quyết liệt để giảm số tàu cá vi phạm, chấm dứt hoàn toàn tình trạng tàu cá Việt Nam vi phạm vùng biển nước ngoài. Hoàn thành việc lắp đặt thiết bị VMS trên tàu cá, hoàn thành việc đánh dấu tàu cá, cấp giấy phép khai thác thủy sản theo quy định, đảm bảo kiểm soát chặt chẽ tàu cá ra vào cảng, thực hiện xử phạt nghiêm các hành vi vi phạm khai thác IUU để răn đe, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật.