Chỉ số kinh tế:
Ngày 19/12/2025, tỷ giá trung tâm của VND với USD là 25.148 đồng/USD, tỷ giá USD tại Cục Quản lý ngoại hối là 23.941/26.355 đồng/USD. Tháng 11/2025, Sản xuất công nghiệp tiếp tục phục hồi, IIP tăng 2,3% so với tháng trước và 10,8% so với cùng kỳ; lao động trong doanh nghiệp công nghiệp tăng 1%. Cả nước có 15,1 nghìn doanh nghiệp thành lập mới, 9,7 nghìn doanh nghiệp quay lại, trong khi số doanh nghiệp tạm ngừng, chờ giải thể và giải thể lần lượt là 4.859; 6.668 và 4.022. Đầu tư công ước đạt 97,5 nghìn tỷ đồng; vốn FDI đăng ký 33,69 tỷ USD, thực hiện 23,6 tỷ USD; đầu tư ra nước ngoài đạt 1,1 tỷ USD. Thu ngân sách 201,5 nghìn tỷ đồng, chi 213,3 nghìn tỷ đồng. Tổng bán lẻ và dịch vụ tiêu dùng đạt 601,2 nghìn tỷ đồng, tăng 7,1%. Xuất nhập khẩu đạt 77,06 tỷ USD, xuất siêu 1,09 tỷ USD. CPI tăng 0,45%. Vận tải hành khách đạt 565,7 triệu lượt, hàng hóa 278,6 triệu tấn; khách quốc tế gần 1,98 triệu lượt, tăng 14,2%.
dai-hoi-cong-doan

Tiền triều Hồ (1400 - 1407)

Lâm.TV
Lâm.TV  - 
Từ nửa sau thế kỷ XIV, quốc gia Đại Việt lâm vào khủng hoảng chính trị - xã hội trầm trọng. Trước tình hình đó, Hồ Quý Ly - một đại thần nhà Trần, từng bước tiến lên nắm giữ những chức vụ quan trọng về chính trị và quân sự.
aa
Tiền triều Hồ (1400 - 1407)

Bối cảnh lịch sử

Năm 1400, Hồ Quý Ly ép Trần Thiếu Đế nhường ngôi cho mình, lập nên triều Hồ, đặt niên hiệu là Thánh Nguyên, đổi quốc hiệu là Đại Ngu. Năm 1406, nhà Minh đem quân sang xâm lược nước ta. Năm 1407, cuộc kháng chiến của triều Hồ thất bại. Triều Hồ tồn tại được 7 năm với hai đời vua.

Trước và sau khi lên ngôi, Hồ Quý Ly với vị trí trọng yếu trong triều đình đã tiến hành hàng loạt biện pháp cải cách về các mặt chính trị, quân sự, văn hóa, giáo dục, kinh tế, đặc biệt là cải cách tiền tệ.

Tiền giấy

Cải cách tiền tệ nổi bật của triều Hồ chính là việc ban hành tiền giấy, gọi là Thông bảo hội sao. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Bính Tý, [Quang Thái] năm thứ 9 [1396]… Mùa hạ, tháng 4, bắt đầu phát [tiền giấy] Thông bảo hội sao. In xong, ra lệnh cho người đến đổi, cứ 1 quan tiền đồng đổi lấy 1 quan 2 tiền giấy.

Thể thức [tiền giấy]: tờ 10 đồng vẽ rồng, tờ 30 đồng vẽ sóng, tờ 1 tiền vẽ mây, tờ 2 tiền vẽ rùa, tờ 3 tiền vẽ lân, tờ 5 tiền vẽ phượng, tờ 1 quan vẽ rồng. Kẻ làm tiền giả bị tội chết, ruộng đất, tài sản tịch thu.

Cấm tuyệt tiền đồng, không được chứa lén, tiêu vụng, tất cả thu hết về kho Ngao Trì ở kinh thành và trị sở các xứ. Kẻ nào vi phạm cũng bị trị tội như làm tiền giả”.

Tiền giấy Thông bảo hội sao theo ghi chép của sử biên niên, đó là sản phẩm thuộc về thành tựu của vương triều Trần, do Hồ Quý Ly khởi xướng khi ông nắm nhiều quyền bính của vương triều trong tay. Tuy nhiên, đến triều Hồ loại tiền giấy này mới được lưu hành rộng rãi, do đó, chúng tôi xếp tiền giấy Thông bảo hội sao vào triều Hồ, như tất cả những công trình nghiên cứu về tiền Việt Nam từ trước đến nay đã làm. Thông bảo hội sao ấn hành vào cuối thế kỷ XIV, đã trải qua 600 năm, do vậy, rất khó khăn bảo tồn. Cho đến nay, vẫn chưa phát hiện ra loại tiền giấy này.

Tiền giấy Thông bảo hội sao không dựa trên hệ thống bản vị kim loại quý nên khi mới phát hành đã bị người dân phản đối mạnh mẽ, cự tuyệt sử dụng. Triều đình phải thi hành chính sách khuyến khích người dân sử dụng như thu thuế bằng tiền giấy, nếu dùng tiền Thông bảo hội sao để nộp thì mức thuế nhẹ hơn so với nộp bằng sản vật. Sách Đại Việt sử ký toàn thư có ghi “Bãi dâu, triều trước thu mỗi mẫu 9 quan hoặc 7 quan tiền, nay thu hạng thượng đẳng mỗi mẫu 5 quan tiền giấy, hạng trung đẳng 4 quan tiền giấy, hạng hạ đẳng 3 quan tiền giấy. Tiền nộp hàng năm của đinh nam trước thu 3 quan, nay chiếu theo số ruộng, người nào chỉ có 5 sào ruộng thì thu 5 tiền giấy; từ 6 sào đến 1 mẫu thì thu 1 quan, 1 mẫu 1 sào đến 1 mẫu 5 sào thu 1 quan 5 tiền; từ 1 mẫu 6 sào đến 2 mẫu thu 2 quan; từ 2 mẫu 1 sào đến 2 mẫu 5 sào thu 2 quan 6 tiền; từ 2 mẫu 6 sào trở lên thu 3 quan. Đinh nam không có ruộng và trẻ con, đàn bà goá, thì dẫu có ruộng cũng thôi không thu”. Dù tín dụng của tiền giấy rất thấp, nhưng do áp lực của chính quyền, cuối cùng nó cũng đã thâm nhập được vào lĩnh vực lưu thông, thành vật trung gian trong trao đổi hàng hóa.

Như vậy, việc ra lệnh phát hành tiền giấy vào thời kỳ này không phải xuất phát từ nhu cầu thương nghiệp mà do yêu cầu của người đứng đầu triều đình với tham vọng muốn thay đổi thói quen tiêu dùng tiền kim loại, tập trung đồng để đúc vũ khí. Việc này đã ảnh hưởng nghiêm trọng tới lợi ích của giai cấp địa chủ, quý tộc, đồng thời đẩy dân chúng đến chỗ khó khăn hơn. Có lẽ, đây là một trong những nguyên nhân khiến triều Hồ không được lòng dân nên đã nhanh chóng sụp đổ trước cuộc xâm lược của nhà Minh.

Tiền đồng

Ngay từ khi thiết lập triều Hồ, Hồ Quý Ly đã cho đúc tiền Thánh Nguyên thông bảo 聖元通寳 bằng đồng để thể hiện quyền lực và tính chính thống của triều Hồ. Mặt tiền đúc nổi 4 chữ “Thánh Nguyên thông bảo” - 聖元通寳 theo kiểu Chân thư và Thảo thư. Khổ chữ nhỏ, nét chữ đậm, rõ ràng. Lưng tiền để trơn. Biên tiền trước và sau đều rộng và nổi rõ. Đường kính từ 24,5 - 24,8 mm, dày 1,5mm, nặng từ 3,1 - 3,2 gr.

Tuy nhiên tiền đúc chủ yếu mang tính biểu trưng, số lượng rất ít và hiếm, có thể loại tiền này không đưa vào lưu thông.

Tiền triều Hồ (1400 - 1407)
Ảnh 1. Tiền Thánh Nguyên thông bảo 聖元通寳,kiểu Chân thư và Thảo thư, lưng tiền trơn, đường kính 24,5 -24,8 mm

Không lâu sau khi lên ngôi, Hồ Quý Ly rút về ngôi vị Thái thượng hoàng, truyền ngôi cho con trai là Hồ Hán Thương. Trong thời gian ở ngôi, ông có hai niên hiệu là Thiệu Thành (1401 - 1402) và Khai Đại (1403 - 1407). Đến nay chưa thấy tiền của hai niên hiệu này.


Nguồn: Tác phẩm: ''Lịch sử đồng tiền Việt Nam'' của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Biên tập: Mạnh - Thắng | Đồ họa: Văn Lâm

Lâm.TV

Tin liên quan

Tin khác

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1940 - 1944: Phát hành kỳ 1 (1940)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1940 - 1944: Phát hành kỳ 1 (1940)

Từ năm 1940, chính phủ Vichy (Pháp) do Thống chế Philippe Pétain đứng đầu cho phép Ngân hàng Đông Dương phát hành những loại tiền hào mệnh giá nhỏ (1 hào=10 xu).
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939: Phát hành kỳ 4 (1936-1939)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939: Phát hành kỳ 4 (1936-1939)

Trong kỳ phát hành này, Ngân hàng Đông Dương tiếp tục in các mệnh giá của kỳ 3 nhưng thay đổi chữ ký, đồng thời bổ sung hai mệnh giá mới là 20 piastres và 500 piastres. Các tờ tiền 1, 5 và 100 piastres có hình thức, màu sắc và bố cục tương tự các kỳ trước, chỉ khác chữ ký. Riêng tờ 20 piastres và 500 piastres có thiết kế nổi bật với khung nền “BANQUE DE L’INDOCHINE”, hình Marianne, Angkor Wat, quả địa cầu và voi, phát hành lưu hành trên toàn Đông Dương.
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939: Phát hành kỳ 3 (1932 -1936)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939: Phát hành kỳ 3 (1932 -1936)

Năm 1930, cuộc khủng hoảng kinh tế giai đoạn 1929-1933 tại các nước tư bản chủ nghĩa đã lan sang các thuộc địa, nên Việt Nam cũng bị ảnh hưởng trầm trọng do nền kinh tế của nước thuộc địa phụ thuộc vào kinh tế của chính quốc là nước Pháp. Thực dân Pháp đã thi hành một loạt biện pháp kinh tế - tài chính như: rút vốn đầu tư về các ngân hàng Pháp, dùng tiền của ngân sách Đông Dương trợ cấp cho các công ty tư bản đang có nguy cơ bị phá sản… Trước tình hình đó, Ngân hàng Đông Dương phải phát hành thêm năm mẫu giấy bạc mới. Các đồng tiền phát hành dù vẫn được đảm bảo bằng vàng dự trữ trong ngân hàng, nhưng giá trị thực của nó không còn được như trước.
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939

Từ năm 1923 đến năm 1939, Ngân hàng Đông Dương cho phát hành bốn kỳ với 8 loại mệnh giá là 1 piastre (có 2 loại), 5 piastres (có 2 loại), 20 piastres (có 2 loại), 100 piastres (1 loại) và 500 piastres (1 loại). Trong các kỳ phát hành này, tên ngân hàng phát hành là: “Banque de L’Indo-chine” (bỏ gạch nối ở giữa thành “L’Indochine”). Mặt sau có ba thứ chữ là Hán, Việt, Miên (Campuchia).
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 6

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 6

Nghị định 06/10/1919, phát hành tiền giấy mệnh giá nhỏ gồm 10 cents xanh, 20 cents nâu và 50 cents đỏ. Tờ 20 cents có hai loại: có và không ghi tên nhà in Chaix.Paris. Chúng được phát hành cùng thời điểm tiền xu bạc bị giảm hàm lượng từ 83,5% xuống 40%. Đến năm 1921, Sắc lệnh 02/3/1921 yêu cầu thu hồi và huỷ bỏ các loại tiền này. Giai đoạn 1922–1924, khoảng 94% đã được thu hồi, chỉ còn 6% lưu thông. Tổng phát hành gồm 1 triệu tờ 10 cents, 6 triệu tờ 20 cents và 3,7 triệu tờ 50 cents.
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 5 (1909 - 1925)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 5 (1909 - 1925)

Từ năm 1909 đến 1925, Ngân hàng Đông Dương phát hành tại Sài Gòn và Hải Phòng các loại giấy bạc Đông Dương mệnh giá 5, 20 và 100 piastres trong bốn đợt. Đợt năm 1909 có hai mệnh giá 5 và 20 piastres, mang đậm nét văn hóa “mẫu quốc” Pháp, tiêu biểu là hình Marianne – biểu tượng nước Pháp – ngồi uy nghi trên tờ 20 piastres.
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 4 (1903 -1907)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 4 (1903 -1907)

Căn cứ vào Nghị định ngày 21/01/1875, Nghị định 20/02/1888, 16/5/1900 và Sắc lệnh ngày 10/6/1903, Ngân hàng Đông Dương cho in thêm và phát hành tiền giấy các mệnh giá: 1 piastre, 5 piastres, 20 piastres và 100 piastres.
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 3 (1898-1903)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 3 (1898-1903)

Căn cứ vào hai Nghị định ngày 21/01/1875 và 20/02/1888, Ngân hàng Đông Dương tiếp tục cho in thêm và phát hành tiền giấy các mệnh giá 1 piastre, 5 piastres, 20 piastres và 100 piastres theo yêu cầu của Bộ thuộc địa Pháp. Về cơ bản, họa tiết, kích thước và chất liệu giấy của các tờ tiền này không thay đổi so với kỳ 2, riêng tờ 1 piastre có nền màu xanh được đổi thành màu đỏ. Ngoài ra, 3 loại mệnh giá 5 piastres, 20 piastres và 100 piastres có in trực tiếp địa danh nơi phát hành trên tờ tiền
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 2 (1893-1896)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 2 (1893-1896)

Hiệp ước Quý Mùi, còn gọi Hiệp ước Hác - Măng (Har-mand), ký ngày 25/8/1883 giữa thực dân Pháp và triều đình nhà Nguyễn đã chính thức thừa nhận sự bảo hộ của Pháp ở Bắc và Trung Kỳ, cắt tỉnh Bình Thuận ra khỏi Trung Kỳ để nhập vào Nam Kỳ thuộc Pháp. Ba tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh được sáp nhập vào Bắc Kỳ. Triều đình nhà Nguyễn chỉ còn cai quản vùng đất Trung Kỳ, nhưng mọi việc đều phải thông qua viên Khâm sứ Pháp ở Huế. Trên cơ sở 2 Nghị định ban hành ngày 21/01/1875 và 20/02/1888 và để củng cố vai trò cai trị, Ngân hàng Đông Dương tiếp tục in thêm và phát hành ba loại mệnh giá tương tự như tiền giấy giai đoạn 1875 - 1893, nhưng có một số đặc điểm khác như sau:
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923

Một năm sau ngày thành lập chi nhánh Ngân hàng Đông Dương tại Sài Gòn (ngày 10/4/1875), song song với việc phát hành tiền kim loại, Ngân hàng Đông Dương đã cho phát hành tiền giấy. Tiền giấy của Ngân hàng Đông Dương được ấn định giá trị song bản vị vàng và bạc đáp ứng các chức năng của tiền tệ. Ưu điểm của tiền giấy là có thể in nhiều mệnh giá khác nhau, tiện lợi cho việc lưu thông, cất trữ và thu hồi. Vì vậy, trong thời kỳ 10 năm đầu thế kỷ XX, giá trị tiền giấy chiếm tới 85% tổng giá trị tiền đưa vào lưu thông. Tuy nhiên, tại Việt Nam, do người dân vẫn có thói quen tiêu dùng tiền kim loại truyền thống hình tròn lỗ vuông bằng đồng hoặc kẽm hoặc kim loại quý của triều Nguyễn, nên tiền giấy trong giai đoạn đầu chủ yếu chỉ lưu hành ở một vài thành phố lớn như Hà Nội, Sài Gòn, Hải Phòng và thường được đóng dấu hoặc viết tay địa danh phát hành.