Chỉ số kinh tế:
Ngày 23/6/2025, tỷ giá trung tâm của VND với USD là 25.028 đồng/USD, tỷ giá USD tại Cục Quản lý ngoại hối nhà nước là 23.827/26.229 đồng/USD. Tháng 5/2025, chỉ số IIP ước tăng 4,3% so với tháng trước và 9,4% so với cùng kỳ. Cả nước có hơn 15,1 nghìn doanh nghiệp thành lập mới, tăng 6,1% so với cùng kỳ. Vốn đầu tư công tăng mạnh 15,3%, FDI đăng ký tăng 51,2%, FDI thực hiện tăng 7,9%. Tổng thu ngân sách đạt 172,4 nghìn tỷ đồng, lũy kế 5 tháng tăng 24,5%. Xuất nhập khẩu đạt 78,64 tỷ USD, tăng 15,5%; CPI tăng nhẹ 0,16%, lạm phát cơ bản giữ ở mức 3,10%. Việt Nam đón 1,53 triệu lượt khách quốc tế trong tháng, nâng tổng 5 tháng lên 9,2 triệu lượt, tăng 21,3% so với cùng kỳ.
banner-dai-hoi-dang

Tiền Triều Lý (1010 - 1225)

Mạnh - Thắng - Văn Lâm
Mạnh - Thắng - Văn Lâm  - 
Tiền triều Lý được đúc khá nhiều loại, có phong cách khác với tiền đồng hai triều đại trước. Chữ trên mặt tiền đúc theo kiểu Khải thư, đọc chéo hay đọc vòng...
aa
Tiền Triều Lý (1010 - 1225)
Tiền các đời vua triều Lý

Dưới triều Lý, tiền tệ trở nên đặc biệt quan trọng với thuế khóa, buôn bán và trong cả pháp luật Triều đình. Nhà vua cho thu thuế, cấp bổng lộc bằng tiền và cho phép dùng tiền để chuộc tội… Điều này chứng tỏ kinh tế tiền tệ đã thâm nhập nhiều mối quan hệ xã hội đương thời. Để đáp ứng nhu cầu của dân chúng, các vua triều Lý đã cho đúc và lưu hành nhiều loại tiền đồng mang niên hiệu của mình.

Bên cạnh tiền của các đời vua Lý đúc và lưu hành, trên thị trường còn có các loại tiền thời Đường và Tống của Trung Hoa với tỉ lệ khá lớn. Điều đó cho thấy mối quan hệ buôn bán giữa Đại Việt và Trung Hoa giai đoạn này khá phát triển.

Tiền triều Lý được đúc khá nhiều loại, có phong cách khác với tiền đồng hai triều đại trước. Chữ trên mặt tiền đúc theo kiểu Khải thư, đọc chéo hay đọc vòng. Kèm theo niên hiệu của vua, các đồng tiền đã thấy dùng hai chữ “Thông bảo” - 通寳 hoặc “Nguyên bảo” - 元寳 giống như tiền Trung Hoa đương thời.

Tiền đời vua Lý Thái Tổ (1010 - 1028)

Lý Công Uẩn lên ngôi vua, đặt niên hiệu là Thuận Thiên (1010-1028) và cho đúc tiền Thuận Thiên đại bảo.

Tiền đúc bằng đồng. Mặt tiền đúc nổi 4 chữ “Thuận Thiên đại bảo”- 順天大寳 theo kiểu Chân thư, đọc chéo. Khổ chữ to, nét chữ đậm. Lưng tiền đúc nổi chữ “Nguyệt”- 月 trên lỗ vuông. Biên tiền trước và sau đều hẹp và nổi rõ. Tiền khá dày. Đường kính 25-25,8mm, dày 1,8mm, nặng 5 gr.

Khác với tiền triều Đinh và Tiền Lê, vua Lý Thái Tổ dùng hai chữ “Đại bảo” - 大寳 cùng với niên hiệu của mình để phân biệt với các triều trước cũng như với tiền một số nước khác trong khu vực. Chữ “Đại”- 大 ở đây được hiểu là to lớn, rộng rãi,…nhằm khẳng định sự lớn mạnh của vương triều Lý trong lịch sử sánh vai với Trung Hoa thời Tống và các nước trong khu vực như Champa, Java…

Tiền Triều Lý (1010 - 1225)
Ảnh 1: Tiền Thuận Thiên đại bảo 順天大寳, kiểu Chân thư, lưng tiền đúc chữ “Nguyệt” - 月, đk 25 - 25,8 mm

Tiền đời vua Lý Thái Tông (1028 - 1054)

Năm Mậu Thìn (1028), sau khi Lý Thái Tổ mất, Thái tử Lý Đức Chính (Lý Phật Mã) lên nối ngôi, tức là vua Thái Tông Hoàng đế. Vua Lý Thái Tông ở ngôi 26 năm, đặt 6 niên hiệu: Thiên Thành (1028 - 1034), Thông Thụy (1034 - 1039), Càn Phù Hữu Đạo (1039 - 1042), Minh Đạo (1042 - 1044), Thiên Cảm Thánh Vũ (1044 - 1049) và Sùng Hưng Đại Bảo (1049 - 1054).

a. Tiền mang niên hiệu Càn Phù 乾符:

Hiện nay có nhiều đồng tiền Càn Phù nguyên bảo 乾符元寳 được tìm thấy, tuy trùng niên hiệu Càn Phù, nhưng những mẫu tiền tìm được đều mang đặc điểm của tiền đúc vào giai đoạn sau này, không mang chất liệu và phong cách tiền triều Lý. Như vậy, đồng tiền mang niên hiệu Càn Phù của vua Lý Thái Tông theo chúng tôi là chưa thể khẳng định.

b. Tiền Minh Đạo nguyên bảo 明道元寳:

Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Nhâm Ngọ [Càn Phù Hữu Đạo] năm thứ 4[1042]… Xuống chiếu đổi niên hiệu là Minh Đạo năm thứ 1 … đúc tiền Minh Đạo”. “Quý Mùi, Minh Đạo năm thứ 2 [1043]… Tháng 12… Năm ấy lại đúc tiền Minh Đạo ban cho các quan văn võ”.

Tiền đúc bằng đồng. Mặt tiền đúc nổi 4 chữ “Minh Đạo nguyên bảo”- 明道元寳 theo kiểu Chân thư, đọc vòng. Chữ “Nguyên”- 元 có 4 nét. Khổ chữ to, nét chữ đậm. Lưng tiền để trơn. Biên tiền trước hẹp và nổi rõ, biên tiền sau rộng và nổi rõ.

Tiền Minh Đạo nguyên bảo 明道元寳 được đúc lần đầu vào năm 1042, đúc lại vào năm Minh Đạo thứ 2 (1043) và ban phát cho các quan. Do được đúc nhiều lần nên kích cỡ và chữ viết của tiền có sự khác nhau chút ít. Đường kính 23-23,5mm, dày 1,2-1,6mm, nặng 3,2gr.

Tiền Triều Lý (1010 - 1225)
Ảnh 2. Tiền Minh Đạo nguyên bảo 明道元寳, kiểu Chân thư, lưng tiền trơn, đk 23 - 23,5 mm

c. Tiền Thiên Cảm nguyên bảo 天感元寳:

Năm 1044, vua Lý Thái Tông đổi niên hiệu Minh Đạo sang Thiên Cảm Thánh Vũ và cho đúc tiền Thiên Cảm nguyên bảo. Tiền Thiên Cảm nguyên bảo 天感元寳 của đời vua Lý Thái Tông đúc bằng đồng, có 2 loại:

- Loại thứ nhất: Mặt tiền đúc nổi 4 chữ “Thiên Cảm nguyên bảo”- 天感元寳 theo kiểu Chân thư, đọc vòng. Khổ chữ nhỏ, nét chữ đậm, rõ ràng. Lưng tiền để trơn. Biên tiền trước và sau đều rộng và nổi rõ. Đường kính 22,5mm, dày 1,5mm, nặng 3,3gr.

Tiền Triều Lý (1010 - 1225)
Ảnh 3: Tiền Thiên Cảm nguyên bảo 天感元寳, kiểu Chân thư, lưng tiền trơn, đk 22,5 mm

- Loại thứ hai: Mặt tiền đúc nổi 4 chữ “Thiên Cảm nguyên bảo”- 天感元寳 theo kiểu Chân thư, đọc vòng. Khổ chữ nhỏ, nét chữ đậm, rõ ràng. Lưng tiền đúc hai chữ “Càn Vương” - 乾王 liền nhau trên lỗ vuông. Sở dĩ có chữ “Càn Vương” là vì Lý Nhật Trung - con trai thứ của vua Lý Thái Tông không được làm Thái tử nhưng mẹ của Lý Nhật Trung được vua Lý Thái Tông rất sủng ái nên phong làm Hoàng hậu (năm Thông Thụy thứ 2-1035), do đó, vua Lý Thái Tông phong cho Lý Nhật Trung hai chữ “Càn Vương” (nghĩa là không phải vua nhưng là vua) và được cho đúc lên mặt sau của đồng tiền. Biên tiền trước và sau đều nổi rõ. Đường kính 22,5mm, dày 1,5mm, nặng 3,3gr. Đây là loại tiền quý hiếm.

Tiền Triều Lý (1010 - 1225)
Ảnh 4:Tiền Thiên Cảm nguyên bảo 天感元寳, kiểu Chân thư, lưng tiền đúc hai chữ “Càn Vương” - 乾王, đk 22,5mm

Trong khoảng thời gian gần 100 năm (1054 - 1138), trải qua ba đời vua: Lý Thánh Tông (1054 - 1072), Lý Nhân Tông (1072 - 1127) và Lý Thần Tông (1128 - 1138), sử cũ không thấy ghi chép việc các vua cho đúc tiền mang niên hiệu của mình.

Tiền đời vua Lý Anh Tông (1138 - 1175)

Vua Lý Thần Tông mất, ngày 1 tháng 10 năm Mậu Ngọ (1138), Lý Thiên Tộ lên ngôi (tức vua Lý Anh Tông) và mất vào năm Ất Mùi (1175). Ở ngôi 37 năm, Vua Lý Anh Tông đặt các niên hiệu: Thiệu Minh (1138 - 1140), Đại Định (1140 - 1162), Chính Long Bảo Ứng (1163 - 1174) và Thiên Cảm Chí Bảo (1174 - 1175).

Năm 1163, vua Lý Anh Tông đổi niên hiệu Chính Long Bảo Ứng. Hiện nay, đã tìm thấy ba loại tiền Chính Long nguyên bảo 正隆元寳 gồm:

- Loại thứ nhất: Tiền Chính Long nguyên bảo 正隆元寳, kích thước to, dầy, chữ trên mặt tiền đúc theo kiểu Chân thư, đọc vòng, bố cục chữ gọn, góc lỗ vuông, đúc dạng tứ thoát. Loại tiền này rất quý hiếm.

- Loại thứ hai: Tiền Chính Long nguyên bảo 正隆元寳, kích thước to, dày, chữ trên mặt tiền đúc theo kiểu Chân thư, đọc vòng, vành biên, nét chữ rộng hơn, khá giống phong cách tiền thời Lê - Mạc.

- Loại thứ ba: Tiền Chính Long nguyên bảo 正隆元寳,kích thước nhỏ, mỏng, nét chữ mảnh, được tìm thấy rất nhiều. Cả ba loại tiền này đều không phải là tiền triều Lý vì niên hiệu Chính Long Bảo Ứng 政隆寶應, chữ “Chính” viết 政 còn trên tiền chữ “Chính” viết là 正.

Giới thiệu ba loại tiền Chính Long nguyên bảo và đặt chúng vào thời Lý Anh Tông bởi có một sự liên hệ với niên hiệu Chính Long Bảo Ứng (1163-1174), đã được sử sách ghi chép, để bạn đọc có thêm tư liệu so sánh nếu có điều kiện gặp niên hiệu như thế, nhưng khác với ba loại tiền này, hẳn sẽ giúp ích nhiều cho khoa học. Còn với chúng tôi, tiền đời Lý Anh Tông cho đến nay vẫn còn chưa rõ, cần tiếp tục nghiên cứu thêm.

Tiền đời vua Lý Cao Tông (1176 - 1210)

Năm 1175, vua Lý Anh Tông mất, con trai là Lý Long Cán (tức vua Lý Cao Tông) nối ngôi. Vua Lý Cao Tông trị vì 34 năm (1176 - 1210), đặt 4 niên hiệu: Trinh Phù (1176 - 1186), Thiên Tư Gia Thụy (1186 - 1202), Thiên Gia Bảo Hựu (1202 - 1205) và Trị Bình Long Ứng (1205 - 1210).

Hiện nay, khảo cổ đã phát hiện tiền trùng với hai niên hiệu của vua Lý Cao Tông đó là: Thiên Tư nguyên bảo và Trị Bình nguyên bảo, Trị Bình thông bảo.

Tiền Trị Bình nguyên bảo và Trị Bình thông bảo có đặc điểm: Mặt tiền đúc chữ theo kiểu Chân thư, đọc vòng, vành viền mặt trước nhỏ, chữ rõ nét, lưng trơn. Hai loại tiền này dù mang phong cách tiền triều Lý, nhưng qua nghiên cứu so sánh, chúng tôi cho rằng những mẫu tiền này đều do tư nhân phỏng đúc vào thời sau. Hiện tượng này chẳng khác nào trường hợp tiền của vua Lý Anh Tông mà chúng tôi đã đề cập.

Riêng đồng Thiên Tư nguyên bảo 天資元寳, chắc chắn là của vua Lý Cao Tông cho đúc nhưng còn lại đến nay rất hiếm hoi. Tiền đúc bằng đồng. Mặt tiền đúc nổi 4 chữ “Thiên Tư nguyên bảo” - 天資元寳 theo kiểu Chân thư, đọc vòng. Khổ chữ to, nét chữ đậm, rõ ràng. Lưng tiền để trơn. Biên tiền trước hẹp và nổi rõ, biên tiền sau mờ. Tiền khá dày. Đường kính 25mm, dày 1,8mm, nặng 3,65gr.

Tiền Triều Lý (1010 - 1225)
Ảnh 5: Tiền Thiên tư nguyên bảo 天資元寳, kiểu Chân thư, lưng tiền trơn, đk 25mm

Dưới triều Lý, tuy Nhà nước phong kiến đã phát triển khá toàn diện, nhưng lương bổng quan lại vẫn theo chế độ thực phong, thực ấp và trong dân gian vẫn dùng phương thức hàng đổi hàng. Các vua triều Lý đều đúc tiền nhưng số lượng không nhiều, trừ tiền Minh Đạo thông bảo còn lại các mẫu tiền khác đều là những mẫu tiền quý hiếm, cho đến nay vẫn chưa được phát hiện.

--

Nguồn: Tác phẩm: ''Lịch sử Đồng tiền Việt Nam'' của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Biên tập: Mạnh - Thắng | Đồ họa: Văn Lâm

Mạnh - Thắng - Văn Lâm

Tin liên quan

Tin khác

Tiền triều Trần (1225-1400) - Kỳ V: Tiền đời vua Trần Dụ Tông (1341-1369) - Phần I

Tiền triều Trần (1225-1400) - Kỳ V: Tiền đời vua Trần Dụ Tông (1341-1369) - Phần I

Năm 1341, vua Trần Hiến Tông mất sớm, không có con, Thái Thượng hoàng Trần Minh Tông phải lập người em của vua Trần Hiến Tông là Trần Hạo (tức vua Trần Dụ Tông) mới 5 tuổi lên ngôi. Vua Trần Dụ Tông tại vị 28 năm, có 2 niên hiệu là Thiệu Phong (1341 - 1357) và Đại Trị (1358 - 1369) và đều cho đúc tiền mang các niên hiệu đó.
Tiền triều Trần (1225-1400) - Kỳ IV: Tiền đời Vua Trần Minh Tông (1314-1329)

Tiền triều Trần (1225-1400) - Kỳ IV: Tiền đời Vua Trần Minh Tông (1314-1329)

Năm 1314, vua Trần Anh Tông nhường ngôi cho Thái tử Mạnh (tức Vua Trần Minh Tông). Vua Trần Minh Tông lên ngôi, đổi niên hiệu là Đại Khánh (1314-1323)...
Tiền triều Trần (1225-1400) - Kỳ III: Tiền đời vua Trần Thánh Tông (1258-1278)

Tiền triều Trần (1225-1400) - Kỳ III: Tiền đời vua Trần Thánh Tông (1258-1278)

Năm 1258, Trần Thái Tông lên làm Thái Thượng Hoàng, nhường ngôi cho con trai trưởng là Trần Hoảng (tức Vua Trần Thánh Tông)...
Tiền triều Tiền Lê (980 - 1009) - Kỳ II: Tiền đời vua Lê Đại Hành (980-1005)

Tiền triều Tiền Lê (980 - 1009) - Kỳ II: Tiền đời vua Lê Đại Hành (980-1005)

Trong thời gian tại vị, Vua Lê Đại Hành đã cho đúc tiền Thiên Phúc trấn bảo lần đầu tiên vào năm 984. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Giáp Thân, [Thiên Phúc] năm thứ 5 [984],... Mùa xuân, tháng 2, đúc tiền Thiên Phúc”...
Tiền triều Trần (1225-1400) - Kỳ II: Tiền đời vua Trần Thái Tông (1225-1258)

Tiền triều Trần (1225-1400) - Kỳ II: Tiền đời vua Trần Thái Tông (1225-1258)

Vua Trần Cảnh lên ngôi tháng 12 năm Ất Dậu (1225), sau khi mất, miếu hiệu là Thái Tông. Vua Trần Thái Tông tại vị 33 năm, đặt 3 niên hiệu: Kiến Trung (1225-1231), Thiên Ứng Chính Bình (1232-1250) và Nguyên Phong (1251-1258).
Tiền triều Tiền Lê (980 - 1009) - Kỳ I

Tiền triều Tiền Lê (980 - 1009) - Kỳ I

Năm 979, Đinh Tiên Hoàng bị Đỗ Thích giết hại. Triều đình đưa Đinh Toàn lên nối ngôi khi mới 6 tuổi. Năm 980, trước họa xâm lăng của nhà Tống, được sự ủng hộ và suy tôn của Dương Thái Hậu (mẹ của Đinh Toàn) và theo đề nghị của Phạm Cự Lạng, Lê Hoàn ...
Tiền triều Trần (1225 - 1400) - Kỳ I

Tiền triều Trần (1225 - 1400) - Kỳ I

Năm 1211, Thái tử Lý Sảm lên ngôi (tức vua Lý Huệ Tông). Do bệnh tình liên miên nên phần lớn triều chính được giao cho Điện tiền chỉ huy sứ Trần Thủ Độ. Vua Lý Huệ Tông chỉ có hai con gái, trưởng nữ là Thuận Thiên công chúa, thứ nữ là Chiêu Thánh công chúa (tức Lý Phật Kim).
Tiền triều Đinh (970-980)

Tiền triều Đinh (970-980)

Sự ra đời của đồng tiền Thái Bình hưng bảo là một trong những tiêu chí, góp phần khẳng định nền độc lập tự chủ của dân tộc...
Quy định về đặt hàng giữa Ngân hàng Nhà nước với cơ sở in, đúc tiền

Quy định về đặt hàng giữa Ngân hàng Nhà nước với cơ sở in, đúc tiền

Phó Thủ tướng Hồ Đức Phớc vừa ký Quyết định số 06/2025/QĐ-TTg quy định về việc đặt hàng giữa Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) với cơ sở in, đúc tiền để in tiền giấy, sản xuất tiền kim loại.
Quy định mới về quản lý seri tiền mới in của NHNN

Quy định mới về quản lý seri tiền mới in của NHNN

NHNN Việt Nam vừa ban hành Thông tư 01/2024/TT-NHNN quy định về quản lý seri tiền mới in của NHNN. Thông tư này quy định việc quản lý seri tiền mới in đối với các loại tiền giấy của NHNN được thực hiện từ khi cấp vần seri, sử dụng vần seri trong quá trình in tiền cho đến khi tiền mới in được phát hành vào lưu thông.