Chỉ số kinh tế:
Ngày 19/12/2025, tỷ giá trung tâm của VND với USD là 25.148 đồng/USD, tỷ giá USD tại Cục Quản lý ngoại hối là 23.941/26.355 đồng/USD. Tháng 11/2025, Sản xuất công nghiệp tiếp tục phục hồi, IIP tăng 2,3% so với tháng trước và 10,8% so với cùng kỳ; lao động trong doanh nghiệp công nghiệp tăng 1%. Cả nước có 15,1 nghìn doanh nghiệp thành lập mới, 9,7 nghìn doanh nghiệp quay lại, trong khi số doanh nghiệp tạm ngừng, chờ giải thể và giải thể lần lượt là 4.859; 6.668 và 4.022. Đầu tư công ước đạt 97,5 nghìn tỷ đồng; vốn FDI đăng ký 33,69 tỷ USD, thực hiện 23,6 tỷ USD; đầu tư ra nước ngoài đạt 1,1 tỷ USD. Thu ngân sách 201,5 nghìn tỷ đồng, chi 213,3 nghìn tỷ đồng. Tổng bán lẻ và dịch vụ tiêu dùng đạt 601,2 nghìn tỷ đồng, tăng 7,1%. Xuất nhập khẩu đạt 77,06 tỷ USD, xuất siêu 1,09 tỷ USD. CPI tăng 0,45%. Vận tải hành khách đạt 565,7 triệu lượt, hàng hóa 278,6 triệu tấn; khách quốc tế gần 1,98 triệu lượt, tăng 14,2%.
dai-hoi-cong-doan

Tiền Triều Lý (1010 - 1225)

Mạnh - Thắng - Văn Lâm
Mạnh - Thắng - Văn Lâm  - 
Tiền triều Lý được đúc khá nhiều loại, có phong cách khác với tiền đồng hai triều đại trước. Chữ trên mặt tiền đúc theo kiểu Khải thư, đọc chéo hay đọc vòng...
aa
Tiền Triều Lý (1010 - 1225)
Tiền các đời vua triều Lý

Dưới triều Lý, tiền tệ trở nên đặc biệt quan trọng với thuế khóa, buôn bán và trong cả pháp luật Triều đình. Nhà vua cho thu thuế, cấp bổng lộc bằng tiền và cho phép dùng tiền để chuộc tội… Điều này chứng tỏ kinh tế tiền tệ đã thâm nhập nhiều mối quan hệ xã hội đương thời. Để đáp ứng nhu cầu của dân chúng, các vua triều Lý đã cho đúc và lưu hành nhiều loại tiền đồng mang niên hiệu của mình.

Bên cạnh tiền của các đời vua Lý đúc và lưu hành, trên thị trường còn có các loại tiền thời Đường và Tống của Trung Hoa với tỉ lệ khá lớn. Điều đó cho thấy mối quan hệ buôn bán giữa Đại Việt và Trung Hoa giai đoạn này khá phát triển.

Tiền triều Lý được đúc khá nhiều loại, có phong cách khác với tiền đồng hai triều đại trước. Chữ trên mặt tiền đúc theo kiểu Khải thư, đọc chéo hay đọc vòng. Kèm theo niên hiệu của vua, các đồng tiền đã thấy dùng hai chữ “Thông bảo” - 通寳 hoặc “Nguyên bảo” - 元寳 giống như tiền Trung Hoa đương thời.

Tiền đời vua Lý Thái Tổ (1010 - 1028)

Lý Công Uẩn lên ngôi vua, đặt niên hiệu là Thuận Thiên (1010-1028) và cho đúc tiền Thuận Thiên đại bảo.

Tiền đúc bằng đồng. Mặt tiền đúc nổi 4 chữ “Thuận Thiên đại bảo”- 順天大寳 theo kiểu Chân thư, đọc chéo. Khổ chữ to, nét chữ đậm. Lưng tiền đúc nổi chữ “Nguyệt”- 月 trên lỗ vuông. Biên tiền trước và sau đều hẹp và nổi rõ. Tiền khá dày. Đường kính 25-25,8mm, dày 1,8mm, nặng 5 gr.

Khác với tiền triều Đinh và Tiền Lê, vua Lý Thái Tổ dùng hai chữ “Đại bảo” - 大寳 cùng với niên hiệu của mình để phân biệt với các triều trước cũng như với tiền một số nước khác trong khu vực. Chữ “Đại”- 大 ở đây được hiểu là to lớn, rộng rãi,…nhằm khẳng định sự lớn mạnh của vương triều Lý trong lịch sử sánh vai với Trung Hoa thời Tống và các nước trong khu vực như Champa, Java…

Tiền Triều Lý (1010 - 1225)
Ảnh 1: Tiền Thuận Thiên đại bảo 順天大寳, kiểu Chân thư, lưng tiền đúc chữ “Nguyệt” - 月, đk 25 - 25,8 mm

Tiền đời vua Lý Thái Tông (1028 - 1054)

Năm Mậu Thìn (1028), sau khi Lý Thái Tổ mất, Thái tử Lý Đức Chính (Lý Phật Mã) lên nối ngôi, tức là vua Thái Tông Hoàng đế. Vua Lý Thái Tông ở ngôi 26 năm, đặt 6 niên hiệu: Thiên Thành (1028 - 1034), Thông Thụy (1034 - 1039), Càn Phù Hữu Đạo (1039 - 1042), Minh Đạo (1042 - 1044), Thiên Cảm Thánh Vũ (1044 - 1049) và Sùng Hưng Đại Bảo (1049 - 1054).

a. Tiền mang niên hiệu Càn Phù 乾符:

Hiện nay có nhiều đồng tiền Càn Phù nguyên bảo 乾符元寳 được tìm thấy, tuy trùng niên hiệu Càn Phù, nhưng những mẫu tiền tìm được đều mang đặc điểm của tiền đúc vào giai đoạn sau này, không mang chất liệu và phong cách tiền triều Lý. Như vậy, đồng tiền mang niên hiệu Càn Phù của vua Lý Thái Tông theo chúng tôi là chưa thể khẳng định.

b. Tiền Minh Đạo nguyên bảo 明道元寳:

Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Nhâm Ngọ [Càn Phù Hữu Đạo] năm thứ 4[1042]… Xuống chiếu đổi niên hiệu là Minh Đạo năm thứ 1 … đúc tiền Minh Đạo”. “Quý Mùi, Minh Đạo năm thứ 2 [1043]… Tháng 12… Năm ấy lại đúc tiền Minh Đạo ban cho các quan văn võ”.

Tiền đúc bằng đồng. Mặt tiền đúc nổi 4 chữ “Minh Đạo nguyên bảo”- 明道元寳 theo kiểu Chân thư, đọc vòng. Chữ “Nguyên”- 元 có 4 nét. Khổ chữ to, nét chữ đậm. Lưng tiền để trơn. Biên tiền trước hẹp và nổi rõ, biên tiền sau rộng và nổi rõ.

Tiền Minh Đạo nguyên bảo 明道元寳 được đúc lần đầu vào năm 1042, đúc lại vào năm Minh Đạo thứ 2 (1043) và ban phát cho các quan. Do được đúc nhiều lần nên kích cỡ và chữ viết của tiền có sự khác nhau chút ít. Đường kính 23-23,5mm, dày 1,2-1,6mm, nặng 3,2gr.

Tiền Triều Lý (1010 - 1225)
Ảnh 2. Tiền Minh Đạo nguyên bảo 明道元寳, kiểu Chân thư, lưng tiền trơn, đk 23 - 23,5 mm

c. Tiền Thiên Cảm nguyên bảo 天感元寳:

Năm 1044, vua Lý Thái Tông đổi niên hiệu Minh Đạo sang Thiên Cảm Thánh Vũ và cho đúc tiền Thiên Cảm nguyên bảo. Tiền Thiên Cảm nguyên bảo 天感元寳 của đời vua Lý Thái Tông đúc bằng đồng, có 2 loại:

- Loại thứ nhất: Mặt tiền đúc nổi 4 chữ “Thiên Cảm nguyên bảo”- 天感元寳 theo kiểu Chân thư, đọc vòng. Khổ chữ nhỏ, nét chữ đậm, rõ ràng. Lưng tiền để trơn. Biên tiền trước và sau đều rộng và nổi rõ. Đường kính 22,5mm, dày 1,5mm, nặng 3,3gr.

Tiền Triều Lý (1010 - 1225)
Ảnh 3: Tiền Thiên Cảm nguyên bảo 天感元寳, kiểu Chân thư, lưng tiền trơn, đk 22,5 mm

- Loại thứ hai: Mặt tiền đúc nổi 4 chữ “Thiên Cảm nguyên bảo”- 天感元寳 theo kiểu Chân thư, đọc vòng. Khổ chữ nhỏ, nét chữ đậm, rõ ràng. Lưng tiền đúc hai chữ “Càn Vương” - 乾王 liền nhau trên lỗ vuông. Sở dĩ có chữ “Càn Vương” là vì Lý Nhật Trung - con trai thứ của vua Lý Thái Tông không được làm Thái tử nhưng mẹ của Lý Nhật Trung được vua Lý Thái Tông rất sủng ái nên phong làm Hoàng hậu (năm Thông Thụy thứ 2-1035), do đó, vua Lý Thái Tông phong cho Lý Nhật Trung hai chữ “Càn Vương” (nghĩa là không phải vua nhưng là vua) và được cho đúc lên mặt sau của đồng tiền. Biên tiền trước và sau đều nổi rõ. Đường kính 22,5mm, dày 1,5mm, nặng 3,3gr. Đây là loại tiền quý hiếm.

Tiền Triều Lý (1010 - 1225)
Ảnh 4:Tiền Thiên Cảm nguyên bảo 天感元寳, kiểu Chân thư, lưng tiền đúc hai chữ “Càn Vương” - 乾王, đk 22,5mm

Trong khoảng thời gian gần 100 năm (1054 - 1138), trải qua ba đời vua: Lý Thánh Tông (1054 - 1072), Lý Nhân Tông (1072 - 1127) và Lý Thần Tông (1128 - 1138), sử cũ không thấy ghi chép việc các vua cho đúc tiền mang niên hiệu của mình.

Tiền đời vua Lý Anh Tông (1138 - 1175)

Vua Lý Thần Tông mất, ngày 1 tháng 10 năm Mậu Ngọ (1138), Lý Thiên Tộ lên ngôi (tức vua Lý Anh Tông) và mất vào năm Ất Mùi (1175). Ở ngôi 37 năm, Vua Lý Anh Tông đặt các niên hiệu: Thiệu Minh (1138 - 1140), Đại Định (1140 - 1162), Chính Long Bảo Ứng (1163 - 1174) và Thiên Cảm Chí Bảo (1174 - 1175).

Năm 1163, vua Lý Anh Tông đổi niên hiệu Chính Long Bảo Ứng. Hiện nay, đã tìm thấy ba loại tiền Chính Long nguyên bảo 正隆元寳 gồm:

- Loại thứ nhất: Tiền Chính Long nguyên bảo 正隆元寳, kích thước to, dầy, chữ trên mặt tiền đúc theo kiểu Chân thư, đọc vòng, bố cục chữ gọn, góc lỗ vuông, đúc dạng tứ thoát. Loại tiền này rất quý hiếm.

- Loại thứ hai: Tiền Chính Long nguyên bảo 正隆元寳, kích thước to, dày, chữ trên mặt tiền đúc theo kiểu Chân thư, đọc vòng, vành biên, nét chữ rộng hơn, khá giống phong cách tiền thời Lê - Mạc.

- Loại thứ ba: Tiền Chính Long nguyên bảo 正隆元寳,kích thước nhỏ, mỏng, nét chữ mảnh, được tìm thấy rất nhiều. Cả ba loại tiền này đều không phải là tiền triều Lý vì niên hiệu Chính Long Bảo Ứng 政隆寶應, chữ “Chính” viết 政 còn trên tiền chữ “Chính” viết là 正.

Giới thiệu ba loại tiền Chính Long nguyên bảo và đặt chúng vào thời Lý Anh Tông bởi có một sự liên hệ với niên hiệu Chính Long Bảo Ứng (1163-1174), đã được sử sách ghi chép, để bạn đọc có thêm tư liệu so sánh nếu có điều kiện gặp niên hiệu như thế, nhưng khác với ba loại tiền này, hẳn sẽ giúp ích nhiều cho khoa học. Còn với chúng tôi, tiền đời Lý Anh Tông cho đến nay vẫn còn chưa rõ, cần tiếp tục nghiên cứu thêm.

Tiền đời vua Lý Cao Tông (1176 - 1210)

Năm 1175, vua Lý Anh Tông mất, con trai là Lý Long Cán (tức vua Lý Cao Tông) nối ngôi. Vua Lý Cao Tông trị vì 34 năm (1176 - 1210), đặt 4 niên hiệu: Trinh Phù (1176 - 1186), Thiên Tư Gia Thụy (1186 - 1202), Thiên Gia Bảo Hựu (1202 - 1205) và Trị Bình Long Ứng (1205 - 1210).

Hiện nay, khảo cổ đã phát hiện tiền trùng với hai niên hiệu của vua Lý Cao Tông đó là: Thiên Tư nguyên bảo và Trị Bình nguyên bảo, Trị Bình thông bảo.

Tiền Trị Bình nguyên bảo và Trị Bình thông bảo có đặc điểm: Mặt tiền đúc chữ theo kiểu Chân thư, đọc vòng, vành viền mặt trước nhỏ, chữ rõ nét, lưng trơn. Hai loại tiền này dù mang phong cách tiền triều Lý, nhưng qua nghiên cứu so sánh, chúng tôi cho rằng những mẫu tiền này đều do tư nhân phỏng đúc vào thời sau. Hiện tượng này chẳng khác nào trường hợp tiền của vua Lý Anh Tông mà chúng tôi đã đề cập.

Riêng đồng Thiên Tư nguyên bảo 天資元寳, chắc chắn là của vua Lý Cao Tông cho đúc nhưng còn lại đến nay rất hiếm hoi. Tiền đúc bằng đồng. Mặt tiền đúc nổi 4 chữ “Thiên Tư nguyên bảo” - 天資元寳 theo kiểu Chân thư, đọc vòng. Khổ chữ to, nét chữ đậm, rõ ràng. Lưng tiền để trơn. Biên tiền trước hẹp và nổi rõ, biên tiền sau mờ. Tiền khá dày. Đường kính 25mm, dày 1,8mm, nặng 3,65gr.

Tiền Triều Lý (1010 - 1225)
Ảnh 5: Tiền Thiên tư nguyên bảo 天資元寳, kiểu Chân thư, lưng tiền trơn, đk 25mm

Dưới triều Lý, tuy Nhà nước phong kiến đã phát triển khá toàn diện, nhưng lương bổng quan lại vẫn theo chế độ thực phong, thực ấp và trong dân gian vẫn dùng phương thức hàng đổi hàng. Các vua triều Lý đều đúc tiền nhưng số lượng không nhiều, trừ tiền Minh Đạo thông bảo còn lại các mẫu tiền khác đều là những mẫu tiền quý hiếm, cho đến nay vẫn chưa được phát hiện.

--

Nguồn: Tác phẩm: ''Lịch sử Đồng tiền Việt Nam'' của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Biên tập: Mạnh - Thắng | Đồ họa: Văn Lâm

Mạnh - Thắng - Văn Lâm

Tin liên quan

Tin khác

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1940 - 1944: Phát hành kỳ 1 (1940)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1940 - 1944: Phát hành kỳ 1 (1940)

Từ năm 1940, chính phủ Vichy (Pháp) do Thống chế Philippe Pétain đứng đầu cho phép Ngân hàng Đông Dương phát hành những loại tiền hào mệnh giá nhỏ (1 hào=10 xu).
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939: Phát hành kỳ 4 (1936-1939)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939: Phát hành kỳ 4 (1936-1939)

Trong kỳ phát hành này, Ngân hàng Đông Dương tiếp tục in các mệnh giá của kỳ 3 nhưng thay đổi chữ ký, đồng thời bổ sung hai mệnh giá mới là 20 piastres và 500 piastres. Các tờ tiền 1, 5 và 100 piastres có hình thức, màu sắc và bố cục tương tự các kỳ trước, chỉ khác chữ ký. Riêng tờ 20 piastres và 500 piastres có thiết kế nổi bật với khung nền “BANQUE DE L’INDOCHINE”, hình Marianne, Angkor Wat, quả địa cầu và voi, phát hành lưu hành trên toàn Đông Dương.
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939: Phát hành kỳ 3 (1932 -1936)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939: Phát hành kỳ 3 (1932 -1936)

Năm 1930, cuộc khủng hoảng kinh tế giai đoạn 1929-1933 tại các nước tư bản chủ nghĩa đã lan sang các thuộc địa, nên Việt Nam cũng bị ảnh hưởng trầm trọng do nền kinh tế của nước thuộc địa phụ thuộc vào kinh tế của chính quốc là nước Pháp. Thực dân Pháp đã thi hành một loạt biện pháp kinh tế - tài chính như: rút vốn đầu tư về các ngân hàng Pháp, dùng tiền của ngân sách Đông Dương trợ cấp cho các công ty tư bản đang có nguy cơ bị phá sản… Trước tình hình đó, Ngân hàng Đông Dương phải phát hành thêm năm mẫu giấy bạc mới. Các đồng tiền phát hành dù vẫn được đảm bảo bằng vàng dự trữ trong ngân hàng, nhưng giá trị thực của nó không còn được như trước.
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939

Từ năm 1923 đến năm 1939, Ngân hàng Đông Dương cho phát hành bốn kỳ với 8 loại mệnh giá là 1 piastre (có 2 loại), 5 piastres (có 2 loại), 20 piastres (có 2 loại), 100 piastres (1 loại) và 500 piastres (1 loại). Trong các kỳ phát hành này, tên ngân hàng phát hành là: “Banque de L’Indo-chine” (bỏ gạch nối ở giữa thành “L’Indochine”). Mặt sau có ba thứ chữ là Hán, Việt, Miên (Campuchia).
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 6

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 6

Nghị định 06/10/1919, phát hành tiền giấy mệnh giá nhỏ gồm 10 cents xanh, 20 cents nâu và 50 cents đỏ. Tờ 20 cents có hai loại: có và không ghi tên nhà in Chaix.Paris. Chúng được phát hành cùng thời điểm tiền xu bạc bị giảm hàm lượng từ 83,5% xuống 40%. Đến năm 1921, Sắc lệnh 02/3/1921 yêu cầu thu hồi và huỷ bỏ các loại tiền này. Giai đoạn 1922–1924, khoảng 94% đã được thu hồi, chỉ còn 6% lưu thông. Tổng phát hành gồm 1 triệu tờ 10 cents, 6 triệu tờ 20 cents và 3,7 triệu tờ 50 cents.
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 5 (1909 - 1925)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 5 (1909 - 1925)

Từ năm 1909 đến 1925, Ngân hàng Đông Dương phát hành tại Sài Gòn và Hải Phòng các loại giấy bạc Đông Dương mệnh giá 5, 20 và 100 piastres trong bốn đợt. Đợt năm 1909 có hai mệnh giá 5 và 20 piastres, mang đậm nét văn hóa “mẫu quốc” Pháp, tiêu biểu là hình Marianne – biểu tượng nước Pháp – ngồi uy nghi trên tờ 20 piastres.
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 4 (1903 -1907)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 4 (1903 -1907)

Căn cứ vào Nghị định ngày 21/01/1875, Nghị định 20/02/1888, 16/5/1900 và Sắc lệnh ngày 10/6/1903, Ngân hàng Đông Dương cho in thêm và phát hành tiền giấy các mệnh giá: 1 piastre, 5 piastres, 20 piastres và 100 piastres.
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 3 (1898-1903)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 3 (1898-1903)

Căn cứ vào hai Nghị định ngày 21/01/1875 và 20/02/1888, Ngân hàng Đông Dương tiếp tục cho in thêm và phát hành tiền giấy các mệnh giá 1 piastre, 5 piastres, 20 piastres và 100 piastres theo yêu cầu của Bộ thuộc địa Pháp. Về cơ bản, họa tiết, kích thước và chất liệu giấy của các tờ tiền này không thay đổi so với kỳ 2, riêng tờ 1 piastre có nền màu xanh được đổi thành màu đỏ. Ngoài ra, 3 loại mệnh giá 5 piastres, 20 piastres và 100 piastres có in trực tiếp địa danh nơi phát hành trên tờ tiền
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 2 (1893-1896)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 2 (1893-1896)

Hiệp ước Quý Mùi, còn gọi Hiệp ước Hác - Măng (Har-mand), ký ngày 25/8/1883 giữa thực dân Pháp và triều đình nhà Nguyễn đã chính thức thừa nhận sự bảo hộ của Pháp ở Bắc và Trung Kỳ, cắt tỉnh Bình Thuận ra khỏi Trung Kỳ để nhập vào Nam Kỳ thuộc Pháp. Ba tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh được sáp nhập vào Bắc Kỳ. Triều đình nhà Nguyễn chỉ còn cai quản vùng đất Trung Kỳ, nhưng mọi việc đều phải thông qua viên Khâm sứ Pháp ở Huế. Trên cơ sở 2 Nghị định ban hành ngày 21/01/1875 và 20/02/1888 và để củng cố vai trò cai trị, Ngân hàng Đông Dương tiếp tục in thêm và phát hành ba loại mệnh giá tương tự như tiền giấy giai đoạn 1875 - 1893, nhưng có một số đặc điểm khác như sau:
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923

Một năm sau ngày thành lập chi nhánh Ngân hàng Đông Dương tại Sài Gòn (ngày 10/4/1875), song song với việc phát hành tiền kim loại, Ngân hàng Đông Dương đã cho phát hành tiền giấy. Tiền giấy của Ngân hàng Đông Dương được ấn định giá trị song bản vị vàng và bạc đáp ứng các chức năng của tiền tệ. Ưu điểm của tiền giấy là có thể in nhiều mệnh giá khác nhau, tiện lợi cho việc lưu thông, cất trữ và thu hồi. Vì vậy, trong thời kỳ 10 năm đầu thế kỷ XX, giá trị tiền giấy chiếm tới 85% tổng giá trị tiền đưa vào lưu thông. Tuy nhiên, tại Việt Nam, do người dân vẫn có thói quen tiêu dùng tiền kim loại truyền thống hình tròn lỗ vuông bằng đồng hoặc kẽm hoặc kim loại quý của triều Nguyễn, nên tiền giấy trong giai đoạn đầu chủ yếu chỉ lưu hành ở một vài thành phố lớn như Hà Nội, Sài Gòn, Hải Phòng và thường được đóng dấu hoặc viết tay địa danh phát hành.