Chỉ số kinh tế:
Ngày 18/12/2025, tỷ giá trung tâm của VND với USD là 25.151 đồng/USD, tỷ giá USD tại Cục Quản lý ngoại hối là 23.944/26.358 đồng/USD. Tháng 11/2025, Sản xuất công nghiệp tiếp tục phục hồi, IIP tăng 2,3% so với tháng trước và 10,8% so với cùng kỳ; lao động trong doanh nghiệp công nghiệp tăng 1%. Cả nước có 15,1 nghìn doanh nghiệp thành lập mới, 9,7 nghìn doanh nghiệp quay lại, trong khi số doanh nghiệp tạm ngừng, chờ giải thể và giải thể lần lượt là 4.859; 6.668 và 4.022. Đầu tư công ước đạt 97,5 nghìn tỷ đồng; vốn FDI đăng ký 33,69 tỷ USD, thực hiện 23,6 tỷ USD; đầu tư ra nước ngoài đạt 1,1 tỷ USD. Thu ngân sách 201,5 nghìn tỷ đồng, chi 213,3 nghìn tỷ đồng. Tổng bán lẻ và dịch vụ tiêu dùng đạt 601,2 nghìn tỷ đồng, tăng 7,1%. Xuất nhập khẩu đạt 77,06 tỷ USD, xuất siêu 1,09 tỷ USD. CPI tăng 0,45%. Vận tải hành khách đạt 565,7 triệu lượt, hàng hóa 278,6 triệu tấn; khách quốc tế gần 1,98 triệu lượt, tăng 14,2%.
dai-hoi-cong-doan

Tiền triều Trần (1225 - 1400) - Kỳ I

#tranlam
#tranlam  - 
Năm 1211, Thái tử Lý Sảm lên ngôi (tức vua Lý Huệ Tông). Do bệnh tình liên miên nên phần lớn triều chính được giao cho Điện tiền chỉ huy sứ Trần Thủ Độ. Vua Lý Huệ Tông chỉ có hai con gái, trưởng nữ là Thuận Thiên công chúa, thứ nữ là Chiêu Thánh công chúa (tức Lý Phật Kim).
aa
Tiền triều Trần (1225 - 1400) - Kỳ I

Bối cảnh lịch sử

Năm 1211, Thái tử Lý Sảm lên ngôi (tức vua Lý Huệ Tông). Do bệnh tình liên miên nên phần lớn triều chính được giao cho Điện tiền chỉ huy sứ Trần Thủ Độ. Vua Lý Huệ Tông chỉ có hai con gái, trưởng nữ là Thuận Thiên công chúa, thứ nữ là Chiêu Thánh công chúa (tức Lý Phật Kim). Tuy mới 7 tuổi nhưng Lý Phật Kim được vua Lý Huệ Tông tin yêu và truyền ngôi vào năm 1224 (còn gọi là Lý Chiêu Hoàng). Năm Ất Dậu (1225), Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh (con trai Trần Thừa) lúc đó mới 8 tuổi. Vương triều Trần được thành lập, trải qua 13 đời vua trị vì đất nước 175 năm (1225 - 1400). Triều Trần được các sử gia đánh giá là một trong những triều đại lớn, có nhiều công lao đối với đất nước.

Triều Trần vẫn đóng đô ở Thăng Long và tiếp tục phát triển sự hưng thịnh từ triều Lý. Dưới triều Trần, quyền lực tối cao nằm trong tay người đứng đầu là nhà vua cùng với tầng lớp quý tộc trong tôn thất. Nhà Trần thực hiện chế độ hôn nhân đồng tộc; ban cấp thái ấp (đất thang mộc) cho các quý tộc và quan lại trong triều.

Nước Đại Việt dưới triều Trần uy danh lừng lẫy, với hàng loạt nhân vật lịch sử sáng chói, mà nổi bật là Hưng Đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn.

Triều Trần thực thi các chính sách khuyến khích phát triển nông nghiệp, tổ chức làm thủy lợi trong phạm vi cả nước, đặt chức quan Hà đê chánh sứ, phó sứ trông coi việc đắp và sửa đê, khuyến khích khai hoang lập ấp, xây dựng hệ thống giao thông thủy bộ trong cả nước để phát triển mạng lưới thương nghiệp và các hoạt động buôn bán trao đổi hàng hóa.

Triều Trần đã có những biện pháp khuyến khích thủ công nghiệp và thương nghiệp, chưa áp dụng chính sách ức thương ngặt nghèo như các triều Lê, Nguyễn sau này. Chợ có ở khắp nơi, họp đều kỳ. Kinh thành Thăng Long có 61 phường buôn bán tấp nập, nhộn nhịp cả về ban đêm. Vân Đồn vẫn là địa điểm giao thương quốc tế có từ thời Lý (năm 1149), trao đổi hàng hoá giữa Đại Việt và các nước khác ở Đông Nam Á và Đông Á. Triều Trần đã phát triển bộ phận kinh tế quý tộc quan liêu, với chế độ điền trang thái ấp, sử dụng lao động của tầng lớp nông nô, nô tỳ.

Nhìn chung, dưới triều Trần, một thế cân bằng ổn định về kinh tế đã được duy trì giữa các yếu tố công hữu và tư hữu, giữa nông nghiệp và nền kinh tế hàng hóa, giữa quyền lực, lợi ích của nhà nước, với các đẳng cấp quý tộc tôn thất cũng như khối bình dân trong làng xã.

Tiền các đời vua triều Trần

Tiền tệ dưới thời Trần được sử dụng tương đối phổ biến với nhiều hình thức như mua bán ruộng đất bằng tiền, nộp tiền để lấy quan chức, thu tô thuế bằng tiền. Quan hệ tiền tệ cũng thâm nhập vào cả đời sống chính trị và tín ngưỡng. Đồng tiền còn là vật tùy táng trong các ngôi mộ của tầng lớp quý tộc… Điều này thể hiện chức năng đồng tiền của triều Trần đã mở rộng. Do đó, các vua triều Trần đều cho đúc tiền. Việc đúc tiền do Quan xưởng đảm nhiệm. Trong 13 đời vua Trần, đến nay mới tìm được các loại tiền của 5 vị vua là Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Minh Tông, Trần Dụ Tông và Trần Nghệ Tông.

Tiền đồng của triều Trần sử dụng tất cả các loại thư pháp: Chân thư, Thảo thư, Hành thư, Triện thư, Giản thư… Lưng tiền trơn hoặc có chữ. Tiền triều Trần cũng có sự kế thừa một số đặc điểm của tiền triều Lý. Các vua Trần, sau khi lên ngôi cho đúc tiền mang niên hiệu của mình kèm với hai chữ thông bảonguyên bảo, biên tiền có vành rộng, đều... Do nhu cầu của thương mại, triều Trần cho đúc tiền số lượng nhiều hơn so với triều Lý. Kỹ thuật đúc tiền và hình thức tiền cũng thể hiện bước tiến bộ, gần đạt tới tiêu chuẩn của tiền Hồng Đức thông bảo thời Lê sơ sau này. Nhưng hiện nay, tiền của triều Trần còn lại rất ít. Rất có thể, do vào cuối triều Trần, Hồ Quý Ly cho phát hành tiền giấy và thu hồi tiền đồng để đúc súng nên ngày nay chúng ta không tìm thấy nhiều loại tiền của thời kỳ này.


Đón đọc ký II: Tiền đời vua Trần Thái Tông (1225 - 1258)

Nguồn: Tác phẩm: ''Lịch sử Đồng tiền Việt Nam'' của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Biên tập: Mạnh - Thắng | Đồ họa: Văn Lâm

#tranlam

Tin liên quan

Tin khác

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939: Phát hành kỳ 4 (1936-1939)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939: Phát hành kỳ 4 (1936-1939)

Trong kỳ phát hành này, Ngân hàng Đông Dương tiếp tục in các mệnh giá của kỳ 3 nhưng thay đổi chữ ký, đồng thời bổ sung hai mệnh giá mới là 20 piastres và 500 piastres. Các tờ tiền 1, 5 và 100 piastres có hình thức, màu sắc và bố cục tương tự các kỳ trước, chỉ khác chữ ký. Riêng tờ 20 piastres và 500 piastres có thiết kế nổi bật với khung nền “BANQUE DE L’INDOCHINE”, hình Marianne, Angkor Wat, quả địa cầu và voi, phát hành lưu hành trên toàn Đông Dương.
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939: Phát hành kỳ 3 (1932 -1936)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1923 - 1939: Phát hành kỳ 3 (1932 -1936)

Năm 1930, cuộc khủng hoảng kinh tế giai đoạn 1929-1933 tại các nước tư bản chủ nghĩa đã lan sang các thuộc địa, nên Việt Nam cũng bị ảnh hưởng trầm trọng do nền kinh tế của nước thuộc địa phụ thuộc vào kinh tế của chính quốc là nước Pháp. Thực dân Pháp đã thi hành một loạt biện pháp kinh tế - tài chính như: rút vốn đầu tư về các ngân hàng Pháp, dùng tiền của ngân sách Đông Dương trợ cấp cho các công ty tư bản đang có nguy cơ bị phá sản… Trước tình hình đó, Ngân hàng Đông Dương phải phát hành thêm năm mẫu giấy bạc mới. Các đồng tiền phát hành dù vẫn được đảm bảo bằng vàng dự trữ trong ngân hàng, nhưng giá trị thực của nó không còn được như trước.
Tiền đời vua Nguyễn Dực Tông (1848 - 1883)  Kỳ I - Tiền có mỹ hiệu

Tiền đời vua Nguyễn Dực Tông (1848 - 1883) Kỳ I - Tiền có mỹ hiệu

Tiền mang mỹ hiệu được đúc bằng đồng, có loại 4 chữ, loại 8 chữ như các đời vua trước nhưng số lượng ít hơn.
Thiết kế tiền Việt Nam: Lịch sử và nhân chứng

Thiết kế tiền Việt Nam: Lịch sử và nhân chứng

“Ngoài việc tạo cho đồng tiền có hình thức đẹp hài hòa giữa kỹ thuật và mỹ thuật, thì họa sĩ còn phải là một nhà công nghệ, một nhà bảo an với nhiều thủ thuật để có khả năng chống làm giả, kể cả các thiết bị sao chụp...”, họa sĩ Trần Tiến, nguyên Trưởng phòng thiết kế mẫu tiền (Cục Phát hành và Kho quỹ - NHNN) đã bắt đầu với chúng tôi như thế khi chia sẻ những câu chuyện nghề, chuyện đời của mình.
Ngoảnh lại một hành trình

Ngoảnh lại một hành trình

75 năm với 6 bộ tiền. Có thể nói, gắn với con số 6 tưởng đơn giản, khô khan ấy là cả một bề dày lịch sử với biết bao câu chuyện, cũng như bao thành tựu đáng tự hào.
Chuyện những người vẽ tiền

Chuyện những người vẽ tiền

Thiết kế tiền là một nghề đòi hỏi kỹ thuật rất cao nhưng lại không có trường đào tạo, cho nên các “bí kíp” cũng như kinh nghiệm thiết kế tiền ở Việt Nam thường chỉ được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, hoặc tự mày mò học hỏi các kỹ thuật in tiền tiên tiến ở các nước trên thế giới.