Chỉ số kinh tế:
Ngày 19/12/2025, tỷ giá trung tâm của VND với USD là 25.148 đồng/USD, tỷ giá USD tại Cục Quản lý ngoại hối là 23.941/26.355 đồng/USD. Tháng 11/2025, Sản xuất công nghiệp tiếp tục phục hồi, IIP tăng 2,3% so với tháng trước và 10,8% so với cùng kỳ; lao động trong doanh nghiệp công nghiệp tăng 1%. Cả nước có 15,1 nghìn doanh nghiệp thành lập mới, 9,7 nghìn doanh nghiệp quay lại, trong khi số doanh nghiệp tạm ngừng, chờ giải thể và giải thể lần lượt là 4.859; 6.668 và 4.022. Đầu tư công ước đạt 97,5 nghìn tỷ đồng; vốn FDI đăng ký 33,69 tỷ USD, thực hiện 23,6 tỷ USD; đầu tư ra nước ngoài đạt 1,1 tỷ USD. Thu ngân sách 201,5 nghìn tỷ đồng, chi 213,3 nghìn tỷ đồng. Tổng bán lẻ và dịch vụ tiêu dùng đạt 601,2 nghìn tỷ đồng, tăng 7,1%. Xuất nhập khẩu đạt 77,06 tỷ USD, xuất siêu 1,09 tỷ USD. CPI tăng 0,45%. Vận tải hành khách đạt 565,7 triệu lượt, hàng hóa 278,6 triệu tấn; khách quốc tế gần 1,98 triệu lượt, tăng 14,2%.
dai-hoi-cong-doan

Tổng hợp thị trường thủy sản quý III và dự báo

 - 
Xuất khẩu thủy sản liên tục giảm do cá tra bị áp thuế chống bán phá giá cao; tôm cạnh tranh với Ấn Độ và Indonesia.
aa
Tổng hợp thị trường thủy sản quý III và dự báo
Ảnh minh họa

I. DIỄN BIẾN THỊ TRƯỜNG

1. Diễn biến giá thế giới

Tại Mỹ: Giá tôm sú và tôm thẻ giao dịch tại thị trường New York có xu hướng giảm nhẹ trong tháng 9/2015, nguyên nhân chủ yếu là do sản lượng tôm thế giới vẫn đang khá dồi dào. Ngoài ra, việc các thị trường cung cấp tôm như Ấn Độ, Trung Quốc, Việt Nam… phá giá đồng nội tệ cũng góp phần làm giảm giá tôm. Giá giảm bất chấp những dự báo về việc giá tôm thế giới sẽ tăng nhẹ trở lại do nhu cầu nhập khẩu tôm vào dịp cuối năm tăng lên để phục vụ cho các dịp lễ.

Cụ thể tôm sú Ấn Độ cỡ 16/20 từ mức 6,8 USD/lb hồi tháng 8, xuống 6,25 USD/lb vào trung tuần tháng 9; tôm sú Việt Nam tù mức 7,3 USD/lb, xuống 7 USD/lb; tôm sú Thái Lan từ mức 6,95 USD/lb xuống 6,75 USD/lb

Giá tôm thẻ size 16/20 của Thái Lan giảm 0,15 USD/lb so với hồi tháng 8, còn 5,15USD/lb. Giá tôm thẻ size 16/20 Trung Quốc giảm 0,1 USD/lb, còn 5,15 USD/lb.

Hình 1: Giá tôm sú cỡ 16/20 tại thi trường New York, Mỹ (ĐVT: USD/lb)

Tổng hợp thị trường thủy sản quý III và dự báo

Nguồn: Phòng Thông tin kinh tế quốc tế - VITIC

Giá tôm sú Việt Nam cỡ 16/20 trên thị trường Mỹ hồi tháng 6 luôn có giá bằng hoặc thấp hơn giá tôm Ấn Độ, giao dịch trong khoảng 7,2 – 7,3 USD/lb, nhưng từ giữa tháng 7 đến nay tôm Việt Nam luôn cao hơn giá tôm Ấn Độ từ 0,2 – 0,8 USD/lb (hiện tôm sú Việt Nam 7 USD/lb, tôm sú Ấn Độ 6,25 USD/lb, tôm Thái Lam 6,75 USD/lb). Hiện nay tôm Việt Nam đang có giá cạnh tranh hơn cả tôm Thái Lan và Ấn Độ

Tại Ấn Độ: Giá tôm chân trắng nguyên liệu ở vùng sản xuất chính Andhra Pradesh của Ấn Độ đang tăng nhanh do sản lượng giảm. Giá tôm cỡ lớn tăng mạnh như: cỡ 40 con/kg giá 340 rupee/kg ngày 7/9 (tăng 30 rupee/kg so với ngày 31/8). Tôm cỡ 30 con/kg, giá 390 rupee/kg ngày 7/9 (tăng 20 rupee/kg). Giá tôm cỡ 60, 70 và 80 tăng 15 rupee/kg lên lần lượt là 275 rupee/kg, 245 rupee/kg và 225 rupee/kg. Giá tôm được dự báo sẽ tăng thêm nữa.

Sản lượng giảm do mật độ thả nuôi của thưa dần từ tháng 5 trở đi trong bối cảnh dịch bệnh và giá giảm. Vụ khai thác chính ở các khu vực khác như Kolkata và Orissa sắp kết thúc trong khi sản lượng ở Andhra Pradesh vẫn thấp. Sản lượng thấp có khả năng tiếp diễn ít nhất vài tuần nữa. Tôm cỡ nhỏ và cỡ trung bình đang được khai thác ở Andhra Pradesh tuy nhiên khối lượng không nhiều.

Giá tôm tại Thái Lan: Đầu tháng 9 giá tôm thẻ chân trắng tăng nhẹ với tôm kích cỡ nhỏ, trong khi tôm kích cỡ lớn khá ổn định. Giá tôm thẻ mua tại trang trại ở Thái Lan ngày 01/09 lần lượt ở mức 175 Baht/kg; 140 Baht/kg và 125 Baht/kg với các kích cỡ tương ứng 50 con/kg; 80 con/kg; 100 con/kg. Tuy nhiên do tỷ giá đồng Baht suy giảm so với USD nên giá tôm thẻ chân trắng quy đổi bằng USD có xu hướng giảm. Cụ thể tại ngày 1/9/2015, giá tôm thẻ cỡ 40con/kg; 50 con/kg và 60 con/kg giảm lần lượt 0,04 USD/kg; 0,03 USD/kg và 0,03 USD/kg xuống mức tương ứng là 5,12 USD/kg, 4,85 USD/kg và 4,57 USD/kg so với ngày 25/08.

2. Diễn giá giá trong nước

Giá tôm nguyên liệu liên tục sụt giảm kể từ đầu năm 2015 mặc dù có đan xen các đợt tăng giá nhẹ. Thị trường tôm nguyên liệu trong tháng 8 mặc dù có sự tăng nhẹ về giá nhưng vẫn ở mức thấp so với cùng kỳ năm trước. Giá tôm thẻ tăng trong khi nguồn cung không nhiều, tình hình dịch bệnh vẫn diễn ra trên diện rộng. Sang tháng 9 giá giảm. Thị trường cá tra nguyên liệu tại ĐBSCL vẫn tiếp tục trạng thái trầm lắng. Tại Cần Thơ, trong tháng 9 giá cá tra nguyên liệu size 650-850 g/con vẫn duy trì ở mức 19.500 đ/kg (trả chậm). Tại Đồng Tháp, cá tra nguyên liệu size 750-800 g/con ở mức 19.400-19.500 đ/kg.

Tại Sóc Trăng, giá tôm sú nguyên liệu trong tháng 9 tiếp tục ổn định, trong khi giá tôm thẻ chân trắng giảm khoảng 5.000 –6.000 đ/kg. Cụ thể, giá tôm sú nguyên liệu các cỡ 20, 30, 40 con/kg ổn định lần lươt ở mức 240.000 đ/kg, 170.000 đ/kg, 125.000 đ/kg. Giá tôm thẻ cỡ 60 con/kg giảm 6.000 đ/kg xuống mức 102.000 đ/kg; cỡ 70, 90, 100 con/kg giảm 5.000 đ/kg xuống lân lượt mức 98.000đ/kg, 88.000 đ/kg và 85.000 đ/kg.

Tại Cà Mau, giá tôm thẻ chân trắng giảm nhẹ với kích cỡ nhỏ, trong khi giá tôm sú vẫn ổn định. Cụ thể, giá tôm thẻ cỡ 60 con/kg ở mức 106.000 đ/kg, giảm 4.000 đ/kg; tôm cỡ 70, 80, 90, 100 con/kg giảm 2.000 đ/kg lần lượt ở mức 103.000 đ/kg, 98.000 đ/kg, 93.000 đ/kg và 90.000 đ/kg. Giá tôm sú giữ ổn định ở mức 260.000 đ/kg với tôm cỡ 20 con/kg, 190.000 đ/kg với tôm cỡ 30 con/kg và 160.000 đ/kg với tôm cỡ 40 con/kg.

Tại Khánh Hòa giá tôm tăng dần từ tháng 8 đến mức cao nhất vào giữa tháng 8, sau đó giảm dầm, đến trung tuần tháng 9 (từ 11/09-18/09) giảm mạnh, tôm sú loại 40 con/kg giảm 30.000 đ/kg xuống mức 300.000 đ/kg; tôm thẻ loại 60-80 con/kg cũng giảm10.000 đ/kg xuống mức 160.000-170.000 đ/kg.

Bảng 1: Giá tôm tại Khánh Hòa (ĐVT: đ/kg)

Tôm sú 40con/kg

Tôm thẻ 60 - 80con/kg

Tuần 1-6/8/2015

290.000

150.000-160.000

Tuần 7-14/8/2015

330.000

160.000-170.000

Tuần 15-21/8/2015

330.000

160.000-170.000

Tuần 22-27/8/2015

300.000

160.000-170.000

Tuần 28/8 -2/9/2015

310.000

160.000-170.000

Tuần 3-10/9/2015

330.000

170.000-180.000

Tuần 11-18/9/2015

300.000

160.000-170.000

Nguồn: Vasep

Tại Đà Nẵng, giá tôm thẻ, tôm sú nguyên liệu cũng xu hướng giảm giá từ đầu tháng 8, đến trung tuần tháng 9 (12/09-18/09) đạt mức thấp nhất: tôm sú 25-30 con/kg giảm 10.000 đ/kg xuống mức 90.000 đ/kg. Giá tôm thẻ 80 con/kg cũng giảm 10.000 đ/kg xuống mức 110.000 đ/kg.

Bảng 2: Giá tôm tại Đà Nẵng (ĐVT: đ/kg)

Tôm sú

Tôm thẻ chân trắng

8
con/kg

15
con/kg

25-30
con/kg

40
con/kg

80
con/kg

120
con/kg

01-06/8/2015

500.000

40.000

220.000

120.000

145.000

85.000

07-14/8/2015

480.000

38.000

200.000

120.000

140.000

80.000

15-21/8/2015

480.000

33.000

180.000

95.000

135.000

80.000

22-27/8/2015

480.000

33.000

160.000

70.000

100.000

75.000

28/8-2/9/2015

480.000

29.000

120.000

90.000

80.000

60.000

03-10/9/2015

470.000

23.000

100.000

80.000

120.000

80.000

11-18/9/2015

460.000

200.000

90.000

75.000

110.000

90.000

Nguồn: Vasep

Tại Phú Yên, giá tôm tăng lên trong tháng 8, sau đó giám từ tuần thứ 2 của tháng 9.

Hình 2: Giá tôm thẻ loại 100con/kg tại Phú Yên

Tổng hợp thị trường thủy sản quý III và dự báo

Nguồn: Vasep

II. CUNG – CẦU

1. Thế giới

Ấn Độ: Dự báo sản lượng tôm sẽ giảm do dịch bệnh và do giá thấp

Sau khi đạt được sản lượng tôm kỷ lục giúp đưa giá trị XK thủy sản của Ấn Độ trong 9 tháng kết thúc tháng 12/2014 tăng 14% so với năm trước, ngành nuôi tôm lo ngại về loại bệnh được gọi là RMS (Hội chứng tôm chết liên tiếp) có thể ảnh hưởng đến sản lượng tôm chân trắng trong năm tài chính mới. Trong vụ tôm đầu năm, người nuôi phải thu hoạch sớm do tôm nước này bị ảnh hưởng bởi virut đốm trắng và thiếu oxy.

Do nhu cầu yếu từ Mỹ, lại phải thu hoạch sớm, trong tháng 7 giá tôm Ấn Độ tất cả các cỡ giảm mạnh tại bang Andhra Pradesh, vùng sản xuất tôm chính của Ấn Độ.

Từ tháng 9 trở đi, nguồn cung có thể giảm do người nuôi ở Ấn Độ sẽ hạn chế thả nuôi do giá nguyên liệu thấp, giảm xuống gần với giá thành sản xuất, thậm chí thấp hơn.

Theo báo cáo của Rabobank về tình hình nuôi tôm năm 2015 của Ấn Độ, nếu đợt thả mới bị dịch bệnh bùng phát thì tổng sản lượng tôm trong năm nay của Ấn Độ sẽ giảm xuống ít nhất 30% so với năm 2014.

Ecuador: Sản lượng sẽ giảm vì EMS

Tôm nuôi ở Ecuador chết nhiều từ cuối tháng 4 và một số người nuôi phải thu hoạch sớm để khắc phục tình trạng này. Sản lượng tôm Ecuador đạt kỷ lục trong tháng 5 năm với 30.000 tấn so với 23.000 tấn của cùng kỳ năm ngoái.

Tuy nhiên, tháng 9 năm nay, người nuôi giảm mật độ thả nuôi do lo ngại dịch bệnh nên thu hẹp nguồn cung. Tôm nuôi của Ecuador có thể đang bị nhiễm EMS. Tuy nhiên, do một số người nuôi phải vay vốn để sản xuất nên họ không muốn công khai thông tin về dịch bệnh. EMS có thể đã lan rộng ra 4 tỉnh của Ecuador. Một số trại nuôi ở Ecuador, sản lượng thu hoạch tôm giảm tới 50% do tôm chết nhiều. Ngoài ra, dịch EMS ở Trung Mỹ và Mexico có thể khiến sản lượng tôm ở Trung Mỹ năm nay giảm 25% so với năm ngoái. Mexico đang cân nhắc cấm NK tôm từ các nước Trung Mỹ như Honduras, Nicaragua do EMS, vì vậy có thể sẽ tăng NK tôm từ Việt Nam.

Thái Lan: Sản lượng tôm chỉ tương đương năm 2014

Trên 33% diện tích nuôi tôm của Thái Lan chưa được thả nuôi và diện tích đã thả nuôi có mật độ thưa và thu hoạch trước khi tôm được 10 gram. Thái Lan sẽ hạn chế thả nuôi trong 6 tháng cuối năm do giá nguyên liệu thấp, giảm xuống gần với giá thành sản xuất.

Sản lượng tôm Thái Lan giảm từ mức cao 650.000 tấn xuống 200.000 - 210.000 tấn năm 2014 do EMS. Tuy nhiên hiệp hội tôm Thái Lan cho rằng giá thấp khiến người nuôi không muốn tăng diện tích thả nuôi năm 2015 nên sản lượng năm 2015 chỉ tương đương mức 210.000 tấn của năm 2014. Nước này cần ít nhất 3 năm nữa để sản lượng quay trở lại mức bình thường.

Trung Quốc: Sản xuất tôm cũng gặp khó khăn

Trong vài tháng tới, các khu vực nuôi tôm ở Trung Quốc có thể bị ảnh hưởng bởi gió mùa và El Nino. Điều này khiến sản lượng giảm và giá tôm tăng. Vụ thu hoạch đầu tiên của năm ở Trung Quốc không tốt, một số khu vực bị thiệt hại tới 60% sản lượng tôm.

2. Trong nước

Tổng sản lượng thủy sản 8 tháng năm 2015 đạt 4,25 triệu tấn, tăng 3% so với cùng kỳ 2014, đạt 63,9% kế hoạch năm 2015.

Tổng sản lượng khai thác 8 tháng năm 2015 đạt 1.978 nghìn tấn (tăng 4,4% so với cùng kỳ 2014), đạt 73,3% kế hoạch năm. Trong đó sản lượng khai thác hải sản 8 tháng đạt 240,2 nghìn tấn (bằng 104,9% so với cùng kỳ 2014).

Tổng sản lượng nuôi trồng 8 tháng đạt 2.269 nghìn tấn, tăng 1,9% so với cùng kỳ 2014 và đạt trên 57,4% kế hoạch năm.

Tôm sú: Diện tích tôm sú trong 8 tháng đầu năm 2015 ước đạt 577.000 ha, tăng 2,9% so với cùng kỳ năm trước, sản lượng ước đạt 160.381 tấn, giảm 4%. Vùng đồng bằng sông Cửu Long diện tích tôm sú tăng 3% so với cùng kỳ năm trước, ước đạt 549.813 ha, sản lượng ước đạt 150.967 tấn, giảm 5,8% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: Một số tỉnh có sản lượng giảm đáng kể như: Cà Mau giảm 16,8%, Trà Vinh giảm 18,7%, Sóc Trăng giảm 29,3%.

Tôm thẻ chân trắng: Diện tích tôm thẻ chân trắng trong 8 tháng đầu năm 2015 ước đạt 63.000 ha, giảm 10% so với cùng kỳ năm trước, sản lượng ước đạt 154.000 tấn, giảm 17,6%. Diện tích và sản lượng tôm thẻ chân trắng vùng đồng bằng sông Cửu Long 8 tháng đầu năm 2015 giảm so với cùng kỳ năm trước, diện tích ước đạt 47.125 ha, giảm 12,2%, sản lượng ước đạt 102.809 tấn, giảm 26,4%, trong đó: Trà Vinh diện tích giảm 16,6%, sản lượng giảm 38,1%; Bạc Liêu diện tích giảm 37,1%, sản lượng giảm 15,4%; Kiên Giang diện tích giảm 16,7%, sản lượng giảm 28,8%.

Cá tra: Diện tích cá tra 8 tháng 2015 ước đạt 6.315 ha, tăng 2%, sản lượng ước đạt 740 ngàn tấn, tăng 5% so với cùng kỳ năm trước.

3. Xuất khẩu

Xuất khẩu giảm: Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục hải quan, xuất khẩu thủy sản 8 tháng đầu năm 2015 sụt giảm 17,45% về kim ngạch so với cùng kỳ năm trước, chỉ đạt gần 4,16 tỷ USD.

Điều đáng chú ý là trong 8 tháng đầu năm nay xuất khẩu thủy sản sang tất cả các thị trường lớn đều giảm so với cùng kỳ; trong đó xuất sang Hoa Kỳ giảm 30,49%, đạt 799,14 triệu USD; sang Nhật Bản giảm 11,4%, đạt 650,18triệu USD; sang Hàn Quốc giảm 12,34%, đạt 355,79 triệu USD; sang Trung Quốc giảm 11,2%, đạt 272,61 triệu USD.

Mặc dù, tôm của Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ đã được Bộ Thương mại Mỹ (DOC) áp thuế dưới 1%, nhưng tám tháng đầu năm 2015, xuất khẩu tôm sang Mỹ vẫn giảm 51% so với cùng kỳ.

Xuất khẩu cá tra từ đầu năm đến nay khá ảm đạm, chỉ đạt hơn 1 tỉ USD, giảm 9% so với cùng kỳ 2014. Tuy nhiên xuất sang Trung Quốc tăng trưởng tới 50% so với cùng kỳ. Trong những tháng đầu năm nay, Trung Quốc và Hồng Kông chính thức vượt Mỹ để trở thành thị trường nhập khẩu cá tra lớn nhất của Việt Nam, chiếm tỉ trọng khoảng 15%; thị trường EU xếp thứ 2 và Mỹ đứng hàng thứ 3.

Xuất khẩu cá ngừ tiếp tục giảm 7%, đạt trên 306 triệu USD. Các sản phẩm mực, bạch tuộc xuất khẩu giảm 11% xuống còn 273 triệu USD. Duy nhất xuất khẩu cá biển tăng nhẹ 4% đạt gần 660 triệu USD, các mặt hàng hải sản khác đều giảm.

Nguyên nhân: do khó khăn về nguồn cung và sự cạnh tranh của tôm Ấn Độ và Indonesia. Xuất khẩu tôm không chỉ giảm ở thị trường Mỹ mà còn giảm ở những thị trường khác bao gồm châu Âu và Nhật Bản. Lâu nay, châu Âu, Nhật Bản và Mỹ là ba thị trường xuất khẩu chính của con tôm, nhưng năm nay, kể cả hai thị trường không có đánh thuế bán phá giá với tôm Việt Nam là châu Âu và Nhật Bản cũng giảm.

Tổng cục Thủy sản (Bộ NN&PTNT) cho rằng: Năm nay, thời tiết khắc nghiệt hơn nên thời vụ xuống giống tôm thẻ chân trắng chậm 1,5-2 tháng so với năm trước. Đến nay, sản lượng tôm thẻ chân trắng đã giảm hơn 17% so với cùng kỳ năm trước. Đây chính là nguyên nhân trực tiếp khiến XK thủy sản sụt giảm mạnh trong 8 tháng đầu năm.

Thời gian qua, thuế chống bán phá giá (CBPG) đã ảnh hưởng mạnh đến XK cá tra. Bộ Thương mại Hoa Kỳ công bố thuế CBPG trong đợt rà soát lần thứ 10 (POR10) áp với cá tra phi lê đông lạnh của Việt Nam tăng gần gấp đôi so với kết quả sơ bộ. Bên cạnh đó, đồng USD tăng giá mạnh, đồng Euro và đồng Yên mất giá làm giảm nhu cầu NK tại hai thị trường là EU và Nhật Bản, tăng áp lực cạnh tranh tại thị trường Hoa Kỳ.

Việc Trung Quốc liên tục phá giá đồng nhân dân tệ cũng đã ảnh hưởng không nhỏ tới XK thủy sản thời gian qua. Bởi ngay sau động thái của Trung Quốc, nhiều quốc gia cũng ngay lập tức phá giá mạnh đồng tiền khiến cho thủy sản của Việt Nam XK trở nên đắt đỏ hơn.

Bảng 3: Số liệu sơ bộ của TCHQ xuất khẩu thủy sản 8 tháng đầu năm 2015

ĐVT: USD

Thị trường

8T/2015

8T/2014

+/-(%)8T/2015
so với cùng kỳ

Tổng kim ngạch

4.155.796.385

5.034.156.852

-17,45

Hoa Kỳ

799.143.831

1.147.998.060

-30,39

Nhật Bản

650.177.505

733.870.378

-11,40

Hàn Quốc

355.789.902

405.852.989

-12,34

Trung Quốc

272.614.831

307.003.566

-11,20

Thái Lan

141.173.779

119.222.908

+18,41

Đức

125.811.826

158.068.247

-20,41

Canada

120.680.353

144.461.872

-16,46

Anh

120.573.652

101.905.314

+18,32

Hà Lan

113.075.125

142.312.642

-20,54

Australia

110.934.064

144.368.723

-23,16

Hồng Kông

96.288.604

97.286.250

-1,03

Đài Loan

80.684.618

95.121.937

-15,18

Italia

75.785.828

96.344.263

-21,34

Bỉ

71.794.529

91.471.356

-21,51

Pháp

69.926.584

95.163.748

-26,52

Singapore

66.459.120

66.627.567

-0,25

Mexico

61.581.727

71.458.094

-13,82

Tây Ban Nha

59.324.022

91.370.715

-35,07

Malaysia

50.032.563

47.877.018

+4,50

Nga

48.032.339

45.625.769

+5,27

Ả Rập Xê út

47.993.406

42.822.877

+12,07

Braxin

46.942.245

82.706.899

-43,24

Ai Cập

44.168.060

48.193.540

-8,35

Colombia

43.141.780

45.088.240

-4,32

Philippines

40.638.487

37.518.562

+8,32

Tiểu vương quốc
Ả Rập thống nhất

39.447.516

43.970.259

-10,29

Thuỵ Sĩ

27.914.162

56.545.316

-50,63

Bồ Đào Nha

26.445.898

32.250.342

-18,00

Israel

26.383.995

32.530.863

-18,90

Đan Mạch

22.201.789

26.993.343

-17,75

NewZealand

12.897.230

14.224.106

-9,33

Ba Lan

12.497.247

14.723.423

-15,12

Thuỵ Điển

12.250.097

12.386.733

-1,10

Campuchia

11.979.768

10.492.185

+14,18

Ấn Độ

11.613.380

9.730.719

+19,35

Séc

10.253.358

6.383.512

+60,62

Pakistan

9.655.144

8.686.280

+11,15

Cô Oét

8.548.332

9.039.828

-5,44

Hy Lạp

6.802.019

10.697.182

-36,41

I rắc

6.220.271

4.827.751

+28,84

Thổ Nhĩ Kỳ

5.603.508

5.156.271

+8,67

Ucraina

4.579.686

24.024.085

-80,94

Rumani

3.131.578

5.716.219

-45,22

Indonesia

1.965.077

3.590.708

-45,27

Brunei

955.012

902.921

+5,77

III. DỰ BÁO

VASEP nhận định, mặt hàng thủy sản đang trong vòng xoáy về điều chỉnh mặt bằng giá xuống thấp (do cạnh tranh nguồn cung tăng, giá giảm thấp...). Một số chuyên gia dự báo, diễn biến này không chỉ trong 4 tháng cuối năm mà có thể sẽ tiếp tục kéo dài hết năm 2016, thậm chí đến năm 2017.

IMF dự báo giá tôm thế giới sẽ giảm trong dài hạn do nhu cầu tiêu dùng yếu tại các thị trường truyền thống, biến động vĩ mô tại các thị trường mới nổi và dư cung tại các nước sản xuất lớn. Dự báo giá tôm năm 2016 sẽ giảm 4%; năm 2017 giảm 7%; năm 2020 giảm 13% so với năm 2015.

Riêng tại Ấn Độ, giá tôm có thể tăng thêm 20% so với hiện nay do sản lượng tôm nguyên liệu vẫn ở mức thấp trong 2 tháng tới. Từ khi giá giảm trong tháng 6, hầu hết người nuôi không thả nuôi nữa.

IV. CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI NGÀNH THỦY SẢN

Mỹ áp mức thuế tôm Việt Nam trung bình 0,91%

Bộ Thương mại Mỹ (DOC) đã công bố kết quả cuối cùng rà soát hành chính lần thứ 9 (POR9) thuế chống bán phá giá tôm đông lạnh nhập khẩu từ Việt Nam với mức trung bình 0,91%

Mức thuế này đã giảm so với kết quả sơ bộ 0,93% công bố hồi tháng 3/2015 và giảm mạnh so với mức thuế 6,37% của kỳ xem xét lần trước POR8 khi các doanh nghiệp xuất khẩu tôm sang Mỹ chịu mức thuế trung bình là 6,37%.

Nguyên nhân chính cho mức thuế này giảm so với lần trước là do DOC đã dựa trên các dữ kiện phù hợp hơn từ 3 nước tham khảo là Bangladesh, Ấn Độ và Indonesia để tính giá thành.Với mức thuế POR9 giảm mạnh so với POR8, dự đoán xuất khẩu tôm Việt Nam sang Mỹ trong những tháng cuối năm sẽ chuyển biến tích cực sau khi sụt giảm trên 50% trong 8 tháng đầu năm.

Theo Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam, trong 3 bị đơn bắt buộc, Minh Phu Seafood Corp có mức thuế cao nhất là 1,39%, giảm nhẹ so với kết quả sơ bộ là 1,5%, Thuan Phuoc Corp chịu mức 1,16%, cao hơn một chút so với kết quả sơ bộ 1,06%, và Fimex VN là 0%. Mức thuế cho 32 bị đơn tự nguyện khác là 0,91%. Mức thuế chung áp dụng toàn quốc là 25,4%, giảm nhẹ so với 25,76% của POR8.

Cá tra lại bị áp thuế chống bán phá giá tại Mỹ

Bộ Thương mại Mỹ (DOC) vừa ra phán quyết sơ bộ mức thuế chống bán phá giá lần thứ 11 (POR11) đối với cá tra philê đông lạnh của Việt Nam.

Bộ Thương mại Mỹ (DOC) vừa ra phán quyết sơ bộ mức thuế chống bán phá giá lần thứ 11 (POR11) đối với cá tra philê đông lạnh của VN vào thị trường này trong giai đoạn 1-8-2013 đến 31-7-2014.

Theo đó, mức thuế mà hai bị đơn bắt buộc là Hùng Vương và Thuận An lần lượt là 0,36 USD/kg và 0,84 USD/kg. 16 công ty là bị đơn tự nguyện trong đợt xem xét lần này chịu mức thuế là 0,6 USD/kg.

Trao đổi với chúng tôi, ông Trương Đình Hòe, tổng thư ký Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thủy sản VN (VASEP), cho biết với mức thuế lên đến 0,6 USD/kg rất khó để các doanh nghiệp cá tra VN có thể đưa hàng vào Mỹ. Tuy nhiên theo ông Hòe, đây mới chỉ là phán quyết sơ bộ của DOC, phía VN vẫn có thời gian nghiên cứu cách tính toán của DOC để có những phản hồi nhằm thay đổi kết quả.

Theo VASEP, trong bảy tháng đầu năm nay, VN đã xuất khẩu được 891 triệu USD cá tra các loại, giảm 8,3% so với cùng kỳ năm ngoái nhưng xuất khẩu sang Mỹ đạt 184,5 triệu USD, tăng 2,1% so với cùng kỳ 2014.

Theo NhanhieuViet.gov.vn

Tin liên quan

Tin khác

Doanh nghiệp nỗ lực bình ổn giá cuối năm

Doanh nghiệp nỗ lực bình ổn giá cuối năm

Ghi nhận tại chợ đầu mối Thủ Đức (TP. Hồ Chí Minh) những ngày này, giá nhiều loại rau củ quả vẫn cao hơn trước đợt mưa lũ vừa qua, thậm chí một số mặt hàng rau lá tiếp tục tăng thêm vài nghìn đồng/kg so với tuần trước. Cụ thể, tại các chợ truyền thống, hành lá có giá 70.000-90.000 đồng/kg, trước đó chỉ khoảng 30.000-40.000 đồng/kg, rau muống 70.000 - 90.000 đồng/kg, xà lách có giá từ 60.000-80.000 đồng/kg, cà chua 40.000-50.000 đồng/kg, dưa leo 35.000 đồng/kg... Những ngày gần đây lượng rau củ về chợ ở mức 1.600-1.700 tấn/ngày, tăng vài trăm tấn so với tuần trước.
Động lực nào cho giá vàng thế giới trong năm 2026

Động lực nào cho giá vàng thế giới trong năm 2026

Giá vàng ghi nhận mức tăng ấn tượng 65% trong năm 2025 cho đến nay. Tuy nhiên, các chuyên gia phân tích nhận định kim loại quý này vẫn có nhiều dư địa và động lực hỗ trợ trong năm 2026.
Ngành cà phê Việt Nam khép lại năm 2025 với “mùa vàng” xuất khẩu

Ngành cà phê Việt Nam khép lại năm 2025 với “mùa vàng” xuất khẩu

Năm 2025 được đánh giá là một năm thành công của ngành cà phê Việt Nam, khi xuất khẩu duy trì đà tăng trưởng tích cực cả về lượng lẫn giá trị. Trong bối cảnh nguồn cung cà phê toàn cầu tiếp tục thắt chặt, giá cà phê neo ở mức cao đã trở thành động lực quan trọng, giúp ngành hàng chủ lực này ghi dấu ấn rõ nét trên bản đồ xuất khẩu nông sản.
Sáng 19/12: Giá vàng thế giới giảm nhẹ

Sáng 19/12: Giá vàng thế giới giảm nhẹ

Tính đến 9h00 sáng nay (19/12), giá vàng giao ngay giảm 8,945 USD so với đầu phiên, giao dịch ở 4.323,645 USD/oz; giá vàng tương lai tháng 2 giảm 13,15 USD lên 4.351,35 USD/oz.
Thị trường hàng hóa: Áp lực dư cung đè nặng, giá đường và đậu tương trượt dài

Thị trường hàng hóa: Áp lực dư cung đè nặng, giá đường và đậu tương trượt dài

Thị trường hàng hóa nguyên liệu thế giới tiếp tục rung lắc trong phiên hôm qua (18/12). Kết phiên, lực bán áp đảo kéo chỉ số MXV-Index giảm 0,5%, lùi về 2.331 điểm.
Thị trường giao đồ ăn online làm thay đổi thói quen tiêu dùng

Thị trường giao đồ ăn online làm thay đổi thói quen tiêu dùng

Hiện nay, việc mua sắm trên sàn thương mại điện tử (TMĐT) và gọi đồ ăn, thức uống online đang tăng tốc mạnh mẽ, định hình lại thị trường bán lẻ và dịch vụ ăn uống Việt Nam năm 2025.
[Infographic] Xăng dầu cùng giảm, mức cao nhất 710 đồng

[Infographic] Xăng dầu cùng giảm, mức cao nhất 710 đồng

Sau điều chỉnh của liên Bộ Công Thương - Tài chính, giá xăng RON 95-III giảm 460 đồng, E5 RON 92 giảm 380 đồng, trong khi các mặt hàng dầu giảm sâu nhất tới 710 đồng mỗi lít, kg. Góp phần kéo giảm chi phí nhiên liệu cho người tiêu dùng.
Lo trở thành “điểm nóng” hàng giả

Lo trở thành “điểm nóng” hàng giả

Thời gian qua, không chỉ các thương hiệu nội địa mà nhiều thương hiệu quốc tế lớn đã liên tục lên tiếng về tình trạng kinh doanh hàng hóa giả mạo, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ trên không gian mạng tại Việt Nam. Trước thực trạng này, cộng đồng doanh nghiệp và các hiệp hội đã kiến nghị cơ quan chức năng cần có giải pháp mạnh mẽ, đồng bộ hơn nhằm bảo vệ thương hiệu và môi trường kinh doanh lành mạnh trong kỷ nguyên số.
Sáng 18/12: Giá vàng giao ngay giảm nhẹ

Sáng 18/12: Giá vàng giao ngay giảm nhẹ

Tính đến 9h00 sáng nay (18/12), giá vàng giao ngay giảm 3,845 USD so với đầu phiên, giao dịch ở 4.333,985 USD/oz; giá vàng tương lai tháng 2 tăng 8,95 USD lên 4.364,95 USD/oz.
Thị trường hàng hóa: Kim loại quý và năng lượng kéo MXV-Index lên 2.343 điểm

Thị trường hàng hóa: Kim loại quý và năng lượng kéo MXV-Index lên 2.343 điểm

Chuỗi tăng nóng của bạc chưa có dấu hiệu hạ nhiệt khi giá tiếp tục chinh phục mốc 67 USD/oz trong phiên hôm qua (17/12). Lực mua lan rộng cả nhóm năng lượng, kéo chỉ số MXV-Index tăng hơn 1,2%, lên 2.343 điểm.