Áp dụng IFRS: Kinh nghiệm từ Hàn Quốc và Nhật Bản
Áp dụng chuẩn IFRS 9: Thách thức lớn nếu ngân hàng chậm bắt tay vào triển khai | |
Quản lý rủi ro tốt hơn khi áp dụng chuẩn mực IFRS 9 |
Dưới đây xin giới thiệu kinh nghiệm áp dụng hệ thống chuẩn mực báo cáo tài chính (BCTC) quốc tế (IFRS) của Hàn Quốc và Nhật Bản. Dù cách tiếp cận và áp dụng IFRS ở mỗi quốc gia này khác nhau, song lộ trình và các bước tiến hành đều mang lại những bài học kinh nghiệm tốt mà Việt Nam có thể tham khảo, học hỏi.
Tình hình áp dụng IFRS trên thế giới - Nguồn: ấn phẩm “Ngôn ngữ BCTC toàn cầu” của IFRS Foundation phát hành tháng 5/2016 |
Hàn Quốc: Áp dụng bắt buộc
Năm 2011, chỉ 4 năm sau khi lộ trình đưa IFRS vào áp dụng ở Hàn Quốc được xây dựng, triển khai và hoàn thiện (công bố năm 2007), tất cả các công ty niêm yết, tổ chức tài chính, DNNN và các đơn vị có lợi ích công chúng khác đều thuộc đối tượng bắt buộc áp dụng chuẩn mực IFRS được thông qua tại Hàn Quốc (K-IFRS, đây là các chuẩn mực IFRS được dịch và thông qua mà không sửa đổi, bổ sung). Các đối tượng bắt buộc áp dụng chuẩn mực K-IFRS đều được yêu cầu đối với cả việc lập BCTC hợp nhất và BCTC riêng.
Tất cả các công ty không niêm yết khác được tự nguyện áp dụng IFRS theo sự lựa chọn của họ (và nếu đã áp dụng IFRS thì không bắt buộc phải áp dụng chuẩn mực kế toán K-GAAP của Hàn Quốc). Riêng đối với các công ty nước ngoài niêm yết tại thị trường Hàn Quốc được tự nguyện lựa chọn một trong các khuôn khổ để lập và trình bày BCTC hợp nhất cho mục đích niêm yết tại Hàn Quốc, bao gồm: Chuẩn mực IFRS; Chuẩn mực K-IFRS; và Chuẩn mực kế toán Mỹ (US GAAP). Đối với các DNNVV được tự nguyện áp dụng IFRS. Các công ty không niêm yết là DNNVV thuộc đối tượng phải kiểm toán độc lập được yêu cầu bắt buộc sử dụng K-GAAP nếu các công ty này không chọn áp dụng IFRS đầy đủ.
Sau 5 năm thực hiện, vào tháng 6/2016, Ủy ban Chuẩn mực kế toán Hàn Quốc đã thực hiện đánh giá quá trình áp dụng IFRS và ghi nhận những tác động tích cực từ việc áp dụng IFRS đặc biệt là hoạt động tài trợ quốc tế cho các công ty Hàn Quốc. Áp dụng IFRS giúp cho việc sử dụng thông tin kế toán có chất lượng cao hơn trong quá trình ra quyết định, ưu tiên cao hơn cho kế toán và phân bổ nguồn lực phù hợp cho kế toán.
Bên cạnh đó, giúp giảm đánh giá về rủi ro trong các quyết định tín dụng và cho vay của các ngân hàng nước ngoài đối với các công ty Hàn Quốc, giảm trường hợp bị định giá sai và giúp thu hút nhiều hơn vốn đầu tư nước ngoài.
K-IFRS được áp dụng bắt buộc không chỉ với các công ty đang niêm yết trên Sở Giao dịch chứng khoán Hàn Quốc, mà với cả các công ty có dự định niêm yết cổ phiếu trong năm hiện tại hoặc năm liền kề sau đó. K-IFRS cũng được áp dụng với các tổ chức tài chính kể cả trường hợp chứng khoán của họ có được giao dịch hay không (bao gồm: Ngân hàng, công ty bảo hiểm, công ty tài chính, công ty thẻ tín dụng, nhà đầu tư, môi giới đầu tư, các đơn vị kinh doanh đầu tư tập thể và các DN ủy thác), các DNNN và các DN nước ngoài niêm yết ở Hàn Quốc lựa chọn áp dụng K-IFRS.
Một trong những yếu tố rất quan trọng để có được K-IFRS là các chuẩn mực IFRS nguyên bản (tiếng Anh) được dịch nguyên văn sang tiếng Hàn Quốc. Theo đó, trong khoảng 13 tháng nỗ lực triển khai công việc xây dựng “Lộ trình đưa IFRS vào áp dụng ở Hàn Quốc” (từ tháng 2/2006 cho đến tháng 3/2007) thì công tác dịch cũng được thực hiện song song, sau đó được đăng tải và xin ý kiến tham gia của các đối tượng liên quan.
Nhờ đó, ngay sau khi lộ trình áp dụng IFRS được công bố vào tháng 3/2007 thì đến tháng 11/2007, bản dịch IFRS sang tiếng Hàn Quốc đã hoàn thành, đồng thời sau khi Ủy ban Giám sát tài chính Hàn Quốc (FSC) thực hiện các thủ tục hành chính thì bản dịch trở thành chuẩn mực BCTC Hàn Quốc (K-IFRS) và chính thức có giá trị pháp lý để áp dụng ở Hàn Quốc.
Nhật Bản: Khuyến khích tự nguyện
Tại Nhật Bản, từ tháng 3/2010, các công ty đại chúng trong nước có thể lựa chọn một trong 4 khuôn khổ sau để lập và trình bày BCTC hợp nhất, gồm: Chuẩn mực kế toán Nhật Bản (JGAAP); Chuẩn mực IFRS; Chuẩn mực kế toán Nhật Bản có điều chỉnh (JMIS - là hệ thống chuẩn mực được Ủy ban chuẩn mực kế toán Nhật Bản (ASBJ) xây dựng và ban hành vào ngày 30/6/2015 trên cơ sở sửa đổi, điều chỉnh cho phù hợp với chuẩn mực IFRS); Chuẩn mực kế toán Mỹ (US GAAP).
Tuy nhiên, theo thông báo của Cơ quan Dịch vụ tài chính Nhật Bản (FSA), kể từ năm tài chính kết thúc vào ngày 31/3/2016, không còn cho phép các công ty niêm yết tại Nhật Bản lựa chọn chuẩn mực US GAAP để lập và trình bày BCTC nữa.
Như vậy, các công ty niêm yết và công ty chuẩn bị niêm yết tại Nhật Bản được tự nguyện lựa chọn áp dụng chuẩn mực IFRS để lập và trình bày BCTC hợp nhất còn việc lập và trình bày BCTC riêng để gửi cho các cơ quan có thẩm quyền như cơ quan thuế, cơ quan quản lý khác… phải được áp dụng theo JGAAP. Tuy nhiên, Nhật Bản cũng không cấm các DN áp dụng IFRS cho việc lập và trình bày BCTC riêng phục vụ cho các mục đích khác như để quản trị DN, hợp nhất với BCTC của công ty mẹ ở nước ngoài, hay vay vốn trên thị trường quốc tế…
Theo thống kê của Sở giao dịch chứng khoán Tokyo (TSE) về mức độ áp dụng chuẩn mực IFRS của các công ty ở Nhật Bản, nếu như tại thời điểm tháng 12/2012 chỉ có 10 công ty Nhật Bản tự nguyện áp dụng chuẩn mực IFRS thì đến ngày 30/6/2017 đã có 171 công ty (chiếm 30% vốn hóa thị trường TSE) đã áp dụng hoặc có kế hoạch áp dụng chuẩn mực IFRS.
Ngoài ra, TSE cho biết, có 214 công ty khác (chiếm 22% vốn hóa thị trường TSE) cũng đã tuyên bố trong BCTC gần đây nhất của họ về việc đang xem xét chuyển sang áp dụng chuẩn mực IFRS. Đối với các công ty nước ngoài niêm yết ở Nhật Bản cũng được tự nguyện áp dụng chuẩn mực IFRS để lập BCTC hợp nhất cho mục đích niêm yết ở thị trường Nhật Bản.
Bên cạnh đó, ngay với chuẩn mực JGAAP thì cũng đã rất “hội tụ” với IFRS. Cụ thể, nếu vào năm 2005, giữa JGAAP và IFRS còn có tới 26 nội dung khác biệt lớn nhưng với Thỏa thuận Tokyo được ký kết giữa Ủy ban Chuẩn mực kế toán quốc tế (IASB) và ASBJ về việc nhất trí đẩy nhanh quá trình “hội tụ” JGAAP với IFRS thì đến năm 2008, JGAAP về cơ bản đã tương thích với IFRS, không còn điểm khác biệt lớn nào.
Ngoài ra ngay từ năm 2009, ASBJ đã xem xét tới khả năng “áp dụng bắt buộc IFRS” và cho biết sẽ đưa ra quyết định cuối cùng về vấn đề này vào năm 2012. Tuy nhiên, có thể do còn những khó khăn, thách thức khi áp dụng IFRS của các DN nên đến nay IFRS vẫn chỉ dừng ở mức tự nguyện và thay vào đó, ASBJ vẫn đang tiếp tục có những xem xét, điều chỉnh để JGAAP ngày càng hoàn thiện và hội tụ hơn nữa với IFRS.
Qua nghiên cứu kinh nghiệm từ Hàn Quốc và Nhật Bản cho thấy, hai nước đều ghi nhận lợi ích và đã áp dụng IFRS, đồng thời vẫn giữ hệ thống chuẩn mực kế toán của quốc gia (trên cơ sở sửa đổi, điều chỉnh cho phù hợp với chuẩn mực quốc tế). Bên cạnh đó, quy mô, phạm vi và cách thức áp dụng IFRS là khác nhau, tùy thuộc vào tình hình, đặc điểm của mỗi nước.
Ngoài ra, do việc áp dụng IFRS là một công việc tương đối phức tạp nên thông thường các quốc gia đều xây dựng kế hoạch và lộ trình áp dụng IFRS và công bố cho DN biết để có đủ thời gian chuẩn bị cơ sở vật chất, hệ thống công nghệ thông tin, nhân lực khi triển khai áp dụng.