Chính sách lao động, tiền lương: “Ổ gà” trên đường hội nhập
Dưới góc nhìn của ông Nguyễn Xuân Dương, Chủ tịch HĐQT Tổng CTCP May Hưng Yên, trong dài hạn nguồn nhân lực dồi dào vẫn sẽ là lợi thế cạnh tranh lớn của ngành dệt may Việt Nam. Tuy nhiên, toàn cầu hoá cùng với hội nhập kinh tế đang khiến cho lợi thế này vơi dần. Đồng thời, các chính sách về lao động, tiền lương, mà theo ông Dương là nhiều bất cập hiện nay, càng khiến Việt Nam mất thêm điểm khi xem xét đến lợi thế cạnh tranh quan trọng này.
Lương tối thiểu liên quan mật thiết tới các khoản đóng BHXH, BHYT, BHTN... |
Vướng gì cũng đổ đầu DN
Chuyển vai sang vị trí là Chủ tịch Hiệp hội DN tỉnh Hưng Yên, ông Dương cho rằng các quy định đã gây bức xúc nhiều năm nay không chỉ đối với DN ngành dệt may mà cả cộng đồng DN nói chung. Điển hình là quy định thời gian làm thêm giờ còn khắt khe hơn cả các quốc gia phát triển. Như Trung Quốc quy định 600 giờ/năm, Nhật Bản 720 giờ/năm… trong khi Việt Nam chỉ 300 giờ/năm.
“Chúng ta hội nhập mà khác người thì làm như thế nào? Trong khi nước họ có thu nhập bình quân đầu người 40.000 USD/năm, chúng ta 2.000 USD/năm, tức là gấp 20 lần, mà làm thêm chỉ bằng nửa người ta thì có hợp lý hay không?”, ông Dương đặt câu hỏi.
Ông cũng lưu ý thực tế là người lao động không tăng ca, lương chỉ 3-4 triệu đồng/người/tháng, nếu không làm thêm ở công ty thì họ cũng phải về làm thêm việc khác mới đủ sống. Không những vậy làm thêm cũng khuyến khích người lao động gắn bó với DN hơn, đóng góp thêm thuế thu nhập cá nhân cho ngân sách. Vậy tại sao không tạo điều kiện cho họ tăng ca ở công ty để đôi bên cùng có lợi?
Sự hạn chế về thời gian tăng ca không chỉ là vấn đề lớn với riêng DN nội địa. Một loạt hiệp hội DN từ Nhật Bản, Hàn Quốc, EU… cũng cho rằng đây là một trong những vướng mắc lớn nhất cần tháo gỡ hiện nay. Bà Phạm Thị Thu Hương, Trưởng phòng nhân sự Công ty Samsung Electronics Việt Nam đề xuất, cần nâng thời gian tăng ca lên ít nhất là 600 giờ/năm.
“Việc không thể chủ động bố trí thời gian làm việc ảnh hưởng rất lớn tới tiến độ giao hàng, rộng hơn là lợi nhuận của chúng tôi. Về lâu dài nếu không thay đổi, cần tính đến việc liệu Samsung có còn ở lại Việt Nam không hay sẽ chuyển sang các quốc gia khác mở hơn về quy định này”, bà Hương lo ngại.
“Chính sách mà cứ thay đổi chút thôi lại làm DN mất vài chục tỷ thì liệu người ta có chịu được không”, đại diện của Hiệp hội Dệt may bức xúc nói về lộ trình tăng lương tối thiểu thời gian tới. Theo vị này, lương tối thiểu liên quan mật thiết tới các khoản đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp… là gánh nặng rất lớn so với chi phí hoạt động của DN.
Đơn cử một đơn vị như May 10, năm 2015 phải đóng khoảng 94 tỷ đồng, năm 2018 lại thêm 30% là khoảng 120 tỷ đồng. DN hiện phải đóng tới hơn 30% trong các khoản thu này, tỷ lệ đóng thuộc loại cao nhất thế giới. Trong khi một số nước láng giềng như Malaysia, Thái Lan… tỷ lệ đóng chỉ khoảng 10-13%. “Ấn Độ đang hướng tới đẩy mạnh xuất khẩu dệt may, với dân số 1,1-1,2 tỷ người thì thừa sức cạnh tranh với ta”, ông Nguyễn Xuân Dương tiếp lời đầy lo ngại.
Lợi thế đang trôi qua rất nhanh
Ông Nguyễn Hoài Nam, Phó tổng thư ký Hiệp hội DN chế biến và xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam (Vasep) lại nêu lên lo ngại khác liên quan đến các chính sách quản lý lao động nước ngoài. Ông Nam cho rằng, từ khi chưa hội nhập thì việc dịch chuyển lao động cũng đã diễn ra. Song từ đó đến nay, các chính sách để quản lý đối tượng này vẫn thiếu trầm trọng, và nếu có nghĩa vụ gì thì lại… đổ đầu DN.
Đơn cử như trợ cấp thôi việc cho người nước ngoài, theo luật hiện nay lao động nước ngoài ở Việt Nam không được tham gia bảo hiểm thất nghiệp. Tuy nhiên khi họ nghỉ thì DN lại có trách nhiệm phải trả trợ cấp thôi việc. Điều này, theo ông Nam là rất vô lý. Ông kiến nghị cần quy định cho người nước ngoài tham gia bảo hiểm thất nghiệp như lao động Việt Nam, như vậy DN không cần phải trả trợ cấp thôi việc cho đối tượng này.
Đại diện của Hiệp hội DN Nhật Bản cũng thẳng thắn bày tỏ quan điểm, trong cam kết WTO Việt Nam đã nêu rõ sẽ không có bất kỳ sự ngăn cản nào vào việc cấp giấy phép lao động cho người nước ngoài đến làm việc, tuy nhiên DN lại chưa thấy điều này thể hiện trong các chính sách hiện nay.
Chẳng hạn quy định cấp phép yêu cầu người lao động vừa phải có lý lịch tư pháp nước sở tại, vừa có lý lịch tư pháp tại Việt Nam là rất trái khoáy. Vì người lao động mới đến Việt Nam 1 ngày đã buộc phải có lý lịch mới cấp giấy phép, gây nhiều khó khăn, “đẻ” thêm nhiều thủ tục phiền hà, tốn kém cho DN.
Nhiều vướng mắc đã rõ và tồn tại đã lâu. Song vấn đề khiến DN lo ngại hơn là việc cải thiện rất chậm chạp, trong khi hội nhập khiến môi trường đầu tư chuyển biến rất nhanh. Vấn đề còn vướng hơn nữa, là chính cơ quan quản lý, hoạch định chính sách cũng không thể tự tháo gỡ các vướng mắc này.
Thứ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội Phạm Minh Huân cho biết, khi xây dựng Luật Lao động 2012 vấn đề giờ làm thêm đã gây nhiều tranh cãi. Tuy nhiên khi trình Quốc hội, bộ đưa ra nhiều phương án về giờ làm thêm, nhưng khi đó các đại biểu là doanh nhân đều không có ý kiến gì. “Giờ chúng tôi cũng chỉ có thể ghi nhận để báo cáo, vì quyết định do Quốc hội, hy vọng năm 2016 có thể sửa được”, ông Huân nói.