Doanh nghiệp - nông dân: Liên kết chuỗi
Ông Trần Thành Nam - Phó tổng giám đốc Tổng công ty Thương mại Sài Gòn TNHH Một thành viên (Satra) trả lời phóng viên TBNH về liên kết chuỗi trong lĩnh vực nông nghiệp.
Được biết Satra đang thực hiện Đề án chuỗi liên kết tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp với nông dân. Chuỗi liên kết này đã được triển khai đến đâu, thưa ông?
Ông Trần Thành Nam |
Vừa qua, UBND tỉnh An Giang đã cùng Satra và các công ty thành viên ký kết các hợp đồng triển khai thực hiện ba đề án chuỗi liên kết tiêu thụ đa dạng hóa hoa màu, liên kết tiêu thụ tôm càng xanh, cá nước ngọt và liên kết sản xuất, tiêu thụ gạo thơm đặc sản Jasmine với bà con nông dân trên địa bàn tỉnh.
Chuỗi liên kết rau màu trước tiên áp dụng với loại sản phẩm cây đậu bắp, cây cà tím giống Nhật với diện tích 50 ha, sau đó sẽ mở rộng thêm một số loại hoa màu khác như ớt trái, mướp đắng, khoai lang và một số loại rau củ khác. Đối với chuỗi liên kết sản xuất và tiêu thụ gạo đặc sản Jasmine, giai đoạn từ năm 2012 – 2013, sẽ tổ chức sản xuất trên địa bàn huyện Châu Phú, quy mô gần 2.000 ha, giai đoạn 2 mở rộng thêm huyện Châu Thành và TP. Long Xuyên, quy mô 2.400 ha, giai đoạn 3 sẽ nhân rộng ra phạm vi toàn tỉnh An Giang. Phấn đấu đến năm 2015, có trên 4.500 ha trồng lúa thơm đặc sản Jasmine xuất sang thị trường một số nước.
Riêng mặt hàng tôm càng xanh, dự kiến triển khai tập trung tại huyện Thoại Sơn, quy mô giai đoạn 1 (50ha), giai đoạn 2 (140ha), các loại sản phẩm cá nước ngọt như cá lóc, cá tra, cá rô phi tập trung nuôi trồng tại huyện Châu Thành, Chợ Mới. Tuy nhiên, đối với các sản phẩm thủy sản vẫn còn phải xem xét, chuẩn hóa lại do một số hộ nuôi trồng chưa đáp ứng được điều kiện vệ sinh an toàn chuồng trại trong khi có nguy cơ lây lan dịch bệnh vẫn còn.
Bên cạnh đó, dự kiến Satra sẽ triển khai liên kết thêm sản phẩm gia súc, lợn, bò (với lợi thế của công ty thành viên Vissan, Cầu Tre) trong lĩnh vực này để tạo nên vùng nguyên liệu ổn định, chất lượng.
Vậy quy trình từ khâu con giống, trồng trọt đến tiêu thụ sẽ được tổ chức thực hiện ra sao?
Trong chuỗi liên kết này, bà con nông dân sẽ được doanh nghiệp (DN) đầu tư cung cấp nguyên vật liệu đầu vào như cây con giống, phân bón, phổ biến quy trình kỹ thuật... Trong quá trình sản xuất, các cán bộ, kỹ thuật viên của DN thường xuyên theo dõi, giám sát để đảm bảo chất lượng đầu ra. Chính vì vậy, nhiều sản phẩm xuất sang thị trường các nước như Mỹ, Nhật, châu Âu… rất khắt khe về chất lượng nhưng các sản phẩm trong chuỗi liên kết xuất đi luôn đảm bảo yêu cầu kỹ thuật và được bạn hàng tín nhiệm.
Nhìn chung, trong quá trình liên kết cơ bản người nông dân chỉ bỏ công sức, lo khâu trồng trọt, chăm sóc. Còn lại DN bao tiêu từ A đến Z, bởi khi có thành phẩm DN cũng đến tận nơi thu mua và đảm bảo đầu ra ổn định chứ không để bà con phải lo khâu bảo quản, tìm mối bán. Đơn cử như đối với sản phẩm đậu bắp, công ty xuất 150 tấn/năm sang thị trường Nhật Bản, nên luôn đảm bảo sức tiêu thụ cho sản phẩm của bà con nông dân.
Vậy DN sẽ phải bỏ ra khoản đầu tư, chi phí khá lớn, thưa ông?
Để có thể thực hiện được điều đó, đòi hỏi DN phải có năng lực tài chính và kinh nghiệm nhất định trong lĩnh vực này. Có thể lấy ví dụ với nhiều sản phẩm rau màu rất khó bảo quản, sau khi thu mua, phải qua khâu sơ chế, xử lý ngay tại địa phương sau đó đóng gói, xuất hàng để đảm bảo chất lượng. Vì vậy, về lâu dài Tổng Công ty dự kiến sẽ xây dựng nhà máy sơ chế rau quả tại An Giang với số vốn đầu tư khoảng 20 tỷ đồng. DN cũng có kế hoạch, xây dựng thương hiệu gạo Jasmine An Giang chất lượng cao tiêu thụ tại thị trường nội địa cũng như xuất khẩu. Và muốn làm được điều này, DN sẽ cần phải có số vốn gần 100 tỷ đồng đầu tư kho dự trữ, nhà máy chế biến… Đó là mặt tài lực, còn nhân lực, kỹ thuật, kinh nghiệm… cũng không thể thiếu.
Được biết, mô hình liên kết chuỗi được triển khai ở nhiều địa phương, song cũng không phải mô hình nào cũng thành công. Vậy mấu chốt của vấn đề này nằm ở đâu, thưa ông?
Đó là luôn đảm bảo nguyên tắc đôi bên cùng có lợi. Cái lợi của DN phải xây dựng dựa trên lợi ích của người nông dân. DN muốn xây dựng được vùng nguyên liệu ổn định, chất lượng cao thì phải xây dựng ngay từ khâu con giống, kỹ thuật đến đảm bảo đầu ra để bà con yên tâm sản xuất. Vấn đề cũng không phải là nói mà phải đảm bảo bằng những nguyên tắc, hợp đồng cam kết đầy đủ ràng buộc giữa hai bên. Có như vậy, liên kết mới không thể bị phá vỡ. Ngoài ra, cái khó của bà con nông dân luôn nằm ở khâu vốn và tiêu thụ, nắm được mấu chốt này và gỡ khó cho người nông dân thì chắc chắn thỏa thuận hợp tác sẽ đạt được.
Xin cảm ơn ông!
Nhật Minh thực hiện