Không vì chậm giải ngân mà nới lỏng quy định
Thủ tướng ra "tối hậu thư" giải ngân vốn ODA | |
Giải ngân vốn ODA: "Cái giá" của sự chậm trễ | |
Yêu cầu đẩy nhanh tiến độ thực hiện, giải ngân vốn ODA |
Ông Đỗ Thiên Anh Tuấn |
Kết thúc 6 tháng đầu năm 2017, giải ngân vốn đầu tư công nói chung và vốn ODA nói riêng rất chậm, chỉ đạt khoảng 30% kế hoạch dự tính thực hiện cả năm. Có ý kiến cho rằng việc áp dụng các quy định mới trong Luật Ngân sách và Luật Đầu tư công khiến quy trình thủ tục siết chặt, vốn chậm giải ngân làm ảnh hưởng tới mục tiêu tăng trưởng của năm 2017, vì vậy cần nới lỏng các quy định hiện nay.
Tuy nhiên, trao đổi với Thời báo Ngân hàng, ông Đỗ Thiên Anh Tuấn, Giảng viên Đại học Fulbright Việt Nam cho rằng không nên vì theo đuổi mục tiêu tăng trưởng ngắn hạn mà thỏa hiệp nới lỏng các quy định cần thiết để nguồn vốn ODA được sử dụng thực chất, hiệu quả.
Theo báo cáo của Chính phủ về tình hình giải ngân vốn ODA, luỹ kế đến hết năm 2016 số vốn chưa giải ngân được vẫn chiếm tới gần 60% tổng vốn đã ký kết của các dự án đang thực hiện. Tình hình giải ngân đặc biệt chững lại kể từ năm 2016 mà theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư là do quy trình thủ tục gặp nhiều vướng mắc. Theo ông, việc siết chặt quy trình thủ tục có phải là lý do chính khiến giải ngân vốn chậm?
Luật Đầu tư công được ban hành năm 2014 và bắt đầu có hiệu lực từ đầu năm 2015 không những đã tạo nền tảng pháp lý quan trọng mà còn giúp chấn chỉnh lại tình trạng đầu tư công vốn lâu nay được xem là rất dàn trải, kém hiệu quả, lãng phí… Như vậy, nếu nói chậm do Luật Đầu tư công thì phải quan sát từ năm 2015 và 2016.
Cũng cần lưu ý là mặc dù đã có Luật nhưng do thiếu Nghị định nên trên thực tế vẫn chỉ là luật “treo”. Phải đến cuối năm 2015, Chính phủ mới ban hành Nghị định 136 hướng dẫn thi hành Luật Đầu tư công, có hiệu lực từ ngày 15/2/2016. Trên tinh thần của Luật, Nghị định 136 được cho là khá chặt chẽ, siết chặt lại điều kiện, trình tự, quy trình, thủ tục,… từ việc lập, thẩm định, quyết định chủ trương đầu tư chương trình, dự án đầu tư công, bao gồm cả dự án sử dụng vốn ODA. Luật và Nghị định cũng xác định rõ hơn nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc lập, thẩm định, quyết định chủ trương đầu tư dự án,…
Rõ ràng, những quy định này đã siết chặt lại theo hướng làm tăng trách nhiệm của các tổ chức và cá nhân được giao nhiệm vụ và thẩm quyền liên quan, khiến cho các bộ, ngành và địa phương vốn đã được phân cấp nhưng vẫn trở nên thận trọng hơn trong các quyết định của mình.
Tuy nhiên, nếu đổ lỗi hết cho vấn đề này là không đúng. Thực tế là không phải năm nay giải ngân ODA mới bắt đầu chậm, cũng không phải vài năm gần đây mà xuyên suốt quá trình hơn 20 năm tiếp nhận ODA, giải ngân nguồn vốn này thường xuyên chậm trễ và đến nay gần như đã trở thành bệnh mạn tính.
Đầu tiên chúng ta vẫn phải nói đến các nguyên nhân lâu nay. Chẳng hạn như chậm trễ trong công tác giải phóng mặt bằng, mà mấu chốt ở đây là vấn đề định giá đất, tính toán phương án di dời, tạo lập sinh kế người dân sau tái định cư…
Bên cạnh đó còn là sự chậm trễ trong quyết định giao chủ trương đầu tư và giao vốn. Tuy nhiên, ngay cả khi đã giao chủ trương đầu tư nhưng do năng lực của chủ đầu tư, của ban quản lý dự án và nhiều đơn vị liên quan lại hạn chế, cũng khiến cho việc chuẩn bị thủ tục và triển khai dự án bị chậm trễ tiến độ. Ngoài ra còn một lý do nữa cũng không thể không nói đến là sự khác biệt trong quy trình thủ tục của chúng ta với các nước tài trợ như lựa chọn nhà thầu, đấu thầu, thực thi và giám sát dự án…
Kết thúc 6 tháng đầu năm 2017, giải ngân vốn đầu tư công nói chung và vốn ODA nói riêng chỉ đạt khoảng 30% kế hoạch thực hiện cả năm |
Vậy còn các nguyên nhân mới phát sinh trong bối cảnh hiện nay là gì, thưa ông?
Từ năm 2010 Việt Nam đã chuyển sang nước có thu nhập trung bình thấp. Các điều khoản cấp ODA dành cho chúng ta bị thắt chặt lại, các điều kiện, quy trình, thủ tục… trở nên khó khăn hơn đã phần nào ảnh hưởng đến sự chuẩn bị và tiến độ triển khai thực hiện các dự án.
Bên cạnh đó, Việt Nam cũng đã áp dụng phương pháp cho vay lại vốn ODA thay vì cấp phát vốn như trước đây. Tức là thay vì Chính phủ đi vay ODA sau đó cấp phát lại cho các bộ, ngành và địa phương, thì nay các địa phương phải vay lại vốn ODA từ Chính phủ. Một trong các điều kiện để được vay lại vốn ODA là địa phương phải chứng minh được khả năng cân đối vốn để có thể trả nợ.
Tuy nhiên, thực trạng nhiều địa phương cho thấy khả năng tự cân đối ngân sách để trả nợ là rất không khả thi. Hiện nay còn tới 47/63 địa phương vẫn phụ thuộc ngân sách trung ương, trong khi đây lại là những địa phương có nhu cầu vốn ODA rất lớn và việc họ chứng minh được khả năng đủ điều kiện vay lại vốn ODA là không dễ. Các địa phương này phải làm việc với Chính phủ để xin được điều chuyển vốn không phải theo con đường vay lại mà theo cấp phát như trước đây. Trong khi các tiêu chí cấp phát vốn vẫn không rõ ràng thì cơ chế xin – cho có thể nảy sinh. Việc phải hoàn thiện thủ tục để tuân thủ các điều kiện đó cũng bắt đầu khó khăn hơn, dẫn tới sự bị động trong giao vốn, cấp vốn, làm chậm tiến trình thực hiện dự án.
Cuối cùng, như đã phân tích ở trước, việc Luật Đầu tư công siết chặt lại quy trình thủ tục về lập, thẩm định, phê duyệt, quyết định đầu tư dự án, trong khi ngoài Nghị định 136, các bộ ngành vẫn chưa có thông tư hướng dẫn cụ thể và chi tiết hơn cũng khiến cho nhiều địa phương bị động. Điều đó khiến các địa phương không dám tự quyết vì sợ rủi ro, buộc địa phương phải đi xin ý kiến Chính phủ và bộ ngành rồi chờ đợi phản hồi. Địa phương này cũng nghe ngóng địa phương khác, chờ địa phương nào đó làm trước, làm mẫu, khi thấy an toàn thì mới làm theo.
Do cách thiết kế động cơ khuyến khích bất hợp lý đã khiến cho cả một hệ thống không ai dám làm, dám chịu trách nhiệm với việc vốn đã được phân cấp cho mình vì sợ rủi ro, sợ làm sai, sợ chịu trách nhiệm… đã góp phần làm trì trệ sự phát triển và tính năng động vốn có của nền kinh tế.
Báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư nhấn mạnh vào vấn đề quy trình thủ tục của luật thắt chặt làm cản trở tốc độ giải ngân. Theo ông có nên nới lỏng lại các quy định này để đẩy nhanh tốc độ giải ngân hay không?
Việc chúng ta ban hành Luật Đầu tư công mà một trong những sứ mạng của nó là làm sao cho các khoản đầu tư công trở nên hiệu quả, chống dàn trải, manh mún, thất thoát, lãng phí,… theo tôi là đúng đắn. Đương nhiên việc siết chặt lại như vậy sẽ khiến tiến độ các dự án đầu tư công hiện thời bị chậm trễ do quy định và cách làm có khác đi khiến các cơ quan và địa phương cảm thấy bỡ ngỡ, ngại rủi ro nên Chính phủ và các bộ ngành cần phải nhanh chóng có văn bản hướng dẫn cụ thể, giống như việc chuyển sang con đường mới thì phải có bản đồ mới. Quốc hội đã thông qua luật thì Chính phủ phải ban hành nghị định hướng dẫn, rồi các bộ như Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính… phải có thông tư hướng dẫn.
Thiết nghĩ chúng ta phải nhất quán với con đường cải cách mà chúng ta đã lựa chọn, không thể vì những khó khăn, rào cản trước mắt mà quay về con đường cũ. Nếu nới lỏng các ràng buộc, bỏ qua một số điều kiện, trình tự và thủ tục nào đó cần thiết thì khác nào chúng ta thoả hiệp với tình trạng kém hiệu quả trong các dự án đầu tư công như trước đây.
Tuy nhiên, chúng ta cũng cần phải mạch lạc rằng việc lấp lỗ hổng không có nghĩa là siết chặt lại các quy định và điều kiện một cách máy móc, làm mờ hơn các trách nhiệm và thẩm quyền, tạo cơ hội cho chủ nghĩa xin – cho. Cần phải tăng cường phân cấp, phân quyền, phân trách nhiệm mạnh mẽ hơn; khuyến khích tính tự chủ, tự ra quyết định, tự chịu trách nhiệm đối với các địa phương hơn nữa. Song song với quá trình đó là tăng cường năng lực giám sát và trách nhiệm giải trình từ nhiều phía, phía trên là Chính phủ và bộ ngành (hệ thống báo cáo), phía dưới là người dân (trách nhiệm giải trình) và phía đồng cấp là các địa phương khác (cơ chế cạnh tranh).
Việt Nam đã bắt đầu tiếp nhận vốn ODA từ năm 1993, tới nay đã hơn 20 năm và đã chuẩn bị tốt nghiệp ODA của nhiều nhà tài trợ quốc tế. Theo ông với khoảng thời gian không phải là ngắn như vậy thì với quy trình quản lý, sử dụng vốn như hiện nay, phải chăng chúng ta vẫn đang chậm thích ứng, thay đổi về mặt thể chế, quy định để tiếp nhận hiệu quả nguồn vốn này?
Đúng vậy. Nền kinh tế Việt Nam đang ngày càng năng động, phát triển từng ngày từng phút, đòi hỏi những nhà hoạch định chính sách và những nhà quản trị đất nước cũng phải nâng cấp mình theo để thích ứng với những đòi hỏi đó. Thế nhưng nhiều cơ quan quản lý nhà nước vẫn quá chậm chạp trong đổi mới năng lực bản thân, chất lượng thể chế, chính sách và quản trị nhà nước cũng quá chậm cải cách.
Những cải cách từ bên trong thường không tương thích với những thay đổi từ bên ngoài và cả những đòi hỏi của đối tác hay thúc ép thực hiện các cam kết hội nhập quốc tế. Sự chậm chạp đó rõ ràng đang làm mất đi các cơ hội của phát triển, làm suy yếu sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Khi Việt Nam đã chuyển lên một nước có thu nhập trung bình thấp, các khoản ODA dành cho Việt Nam không còn dồi dào như trước, nhưng nhiều nước và đối tác vẫn tiếp tục dành ưu tiên ODA cho Việt Nam là sự thể hiện niềm tin vào những cải cách, những tác dụng tích cực mà ODA mang lại đối với phát triển của Việt Nam.
Từ thực tiễn, khác với một số nước, đặc biệt là các nước châu Phi cận Sahara, ODA đã góp phần bần cùng hóa, khuyến khích tham nhũng, gia tăng chia rẽ và tình trạng độc tài, Việt Nam lại thường được Ngân hàng Thế giới dẫn ra như là một trong những quốc gia khá thành công trong tiếp nhận và sử dụng vốn ODA. Mặc dù ở đâu đó chúng ta vẫn chứng kiến tình trạng kém hiệu quả của vốn ODA, nhưng nhìn trên bức tranh chung của nhiều nước nhận ODA thì chúng ta vẫn khá thành công.
Tuy nhiên điều này không có nghĩa là chúng ta đã làm tốt mà bản thân chúng ta cũng gặp rất nhiều vấn đề trục trặc. Kinh nghiệm thành công từ các nước sử dụng ODA hiệu quả là cần phải cải thiện chất lượng thể chế và nâng cao năng lực quản trị nhà nước nhằm tăng khả năng tiếp nhận và hấp thụ những tác động tích cực tiềm năng mà khoản vốn này mang lại. Đây cũng là điểm then chốt gắn với những cải cách cơ cấu và thể chế mà Việt Nam đang tiến hành.
Xin cảm ơn ông!