Kỳ vọng gì vào cải thiện môi trường đầu tư?
Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh | |
Hiệu quả từ cải thiện môi trường đầu tư | |
Tập trung cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh |
Sức hút của Việt Nam đối với NĐT nước ngoài vẫn đang được duy trì tốt, thể hiện ở số vốn FDI thu hút năm 2017 tăng cao trong cả về đăng ký mới và tăng vốn; đồng thời hình thức góp vốn, mua cổ phần cũng tiếp tục gia tăng. Tuy nhiên điều đó không có nghĩa là môi trường đầu tư đã hoàn thiện. Ghi nhận từ các NĐT nước ngoài cho thấy, cùng với nỗ lực tháo bỏ các rào cản đối với dòng vốn ngoại, thì nhiều nút thắt trong môi trường đầu tư vẫn chưa được gỡ, trong khi lại xuất hiện thêm những vấn đề mới.
Giảm chi phí kinh doanh là yêu cầu hàng đầu của DN |
Lo chi phí tiếp tục tăng cao
Vấn đề gây lo ngại hàng đầu là chi phí hoạt động sản xuất, kinh doanh tại Việt Nam đang tăng lên, trong khi còn nhiều khoản có thể cắt giảm song lại chưa được thực hiện triệt để.
Theo khảo sát mới đây của Tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản (Jetro), yếu tố rủi ro hàng đầu trong môi trường đầu tư ở Việt Nam chính là chi phí nhân công tăng cao. Các DN cho rằng mức lương tối thiểu tăng hàng năm liên tục khiến chi phí sản xuất tăng (đặc biệt đối với các ngành thâm dụng lao động như dệt may, da giày… nơi chi phí lương chiếm trên 70% giá gia công sản phẩm).
Đó là chưa kể phạm vi tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội đã mở rộng, bao gồm cả tiền phụ cấp, các khoản thu nhập khác… dẫn tới tổng tiền bảo hiểm DN phải nộp tăng lên. Bên cạnh đó, do năng suất và chất lượng lao động đầu vào hạn chế, nên chi phí tuyển dụng và đào tạo lao động đang ngày càng chiếm tỷ lệ lớn trong tổng chi phí hoạt động của DN.
Ngoài chi phí lao động, nhiều hiệp hội DN cho rằng còn nhiều loại phí, lệ phí có thể cắt giảm. Trong báo cáo gửi tới Diễn đàn DN Việt Nam thường niên năm 2017, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đã dẫn chứng một số loại phí, lệ phí lẽ ra nên được bãi bỏ nhưng chưa được Bộ Tài chính đề xuất bỏ. Ví dụ phí cung cấp thông tin giấy chứng nhận đăng ký DN, giấy chứng nhận hoạt động chi nhánh, văn phòng đại diện, địa điểm kinh doanh…
Ngoài ra, theo VCCI, mức đề xuất giảm một số loại phí, lệ phí còn rất khiêm tốn. Vì vậy mức phí, lệ phí dù đã giảm nhưng vẫn còn cao hơn nhiều so với chi phí mà cơ quan nhà nước bỏ ra, trái với bản chất của phí.
Đơn cử như phí thẩm định xác nhận nguồn gốc nguyên liệu thuỷ sản theo quy định hiện nay là 700.000 đồng/lần thẩm định, trong đề xuất sửa đổi đã giảm xuống còn 630.000 đồng. Tuy nhiên theo một chuyên gia từ Ban Pháp chế, VCCI, trong một năm, một công ty chế biến cá ngừ cỡ vừa cần tới 1.200 bộ xác nhận nguồn gốc nguyên liệu thuỷ sản khai thác. Nếu tính theo mức phí mới, DN vẫn cần chi trả tới hơn 750 triệu đồng/năm cho chi phí này. “Mức phí này là quá lớn với DN trong khi việc thẩm định của cơ quan nhà nước chỉ là nhập và kiểm tra trên hệ thống các thông tin mà DN khai báo”, vị này nhận xét.
Còn quan ngại với vận hành chính sách
Cùng với chi phí kinh doanh tăng cao, việc vận hành các quy định của pháp luật cũng là vấn đề khiến NĐT nước ngoài quan ngại. Dẫn khảo sát của Jetro, ông Kitagawa Hironobu, Trưởng đại diện cơ quan này tại Hà Nội cho biết, trong số 5 rủi ro hàng đầu đối với DN Nhật Bản thì việc hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, vận dụng pháp luật không rõ ràng chính là yếu tố được cải thiện chậm chạp nhất của môi trường đầu tư Việt Nam.
Vị này dẫn chứng, một số chính sách như quy định về nhập khẩu máy móc đã qua sử dụng, bảo hiểm xã hội bắt buộc đối với người nước ngoài, lắp đặt hệ thống chữa cháy tự động… đều thiếu nghiên cứu trước về tác động trước khi ban hành. “Nếu ban hành một văn bản pháp luật mà chưa nghiên cứu kỹ lưỡng, đầy đủ các tác động, sẽ gây bất an, thậm chí đình trệ hoạt động của DN, khiến DN thấy cơ quan quản lý nhà nước “tiền hậu bất nhất”, gây bối rối cho NĐT khi vận dụng các quy định của pháp luật”, ông Kitagawa Hironobu nêu quan điểm của Jetro.
Các DN Nhật Bản cũng nêu ra việc hệ thống thuế còn phức tạp, các quy định thay đổi nhanh chóng như thuế thu nhập cá nhân, thuế chống chuyển giá hay thuế nhà thầu nước ngoài. Ngoài ra, thời gian để hoàn thuế giá trị gia tăng không rõ ràng, khiến các DN nước ngoài tốn kém nhiều thời gian, chi phí để tuân thủ quy định.
Ông Ryu Hang Ha, Chủ tịch Hiệp hội DN Hàn Quốc tại Việt Nam phản ánh một vấn đề khác là chính quyền địa phương vận dụng chính sách không rõ ràng. Ông cho biết, hiện nay theo Luật Đầu tư của Việt Nam, ngoại trừ một số ngành nghề thì hầu hết chưa có quy định về vốn tối thiểu khi thành lập DN FDI. Vì vậy rất nhiều NĐT Hàn Quốc trong quá trình chuẩn bị đầu tư sang Việt Nam đã hiểu rằng không có quy định về vốn tối thiểu. Tuy nhiên khi NĐT nước ngoài xin giấy phép đầu tư, thì tuỳ theo từng địa phương, ngành nghề, người phụ trách vẫn yêu cầu về tiêu chuẩn vốn tối thiểu. Các NĐT Hàn Quốc cho rằng, khi Luật Đầu tư mâu thuẫn với quy định tại địa phương thì thường có xu hướng ưu tiên quy định ở địa phương.
“Chính phủ cần quy định rõ ràng rằng phải ưu tiên quy định ở cấp cao hơn, như vậy sẽ tránh được việc chính quyền địa phương tự ý giải thích và áp dụng luật theo ý mình”, ông Ryu Hang Ha kiến nghị.
Cùng với các vấn đề tồn tại lâu nay chưa được giải quyết triệt để, bà Natasha Ansell, Chủ tịch Hiệp hội DN Hoa Kỳ tại Việt Nam cho rằng, năm vừa qua có nhiều đề xuất chính sách tạo thêm rào cản, thậm chí có thể coi là một bước lùi trong nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư của Việt Nam.
Bà nêu dẫn chứng gồm dự thảo Luật An ninh mạng; thuế tiêu thụ đặc biệt đối với đồ uống ngọt; quy định của luật về vệ sinh, an toàn thực phẩm; dự thảo quy định lao động nước ngoài phải đóng bảo hiểm xã hội… Theo các NĐT Hoa Kỳ, những sửa đổi này thiếu phù hợp với thông lệ quốc tế và khiến nhiều NĐT nước ngoài đứng trước những nguy cơ, rào cản mới khi thực hiện đầu tư.