Ngày ấy chúng tôi đi
Đoàn cán bộ Ngân hàng đi B (ảnh tư liệu)
Còn hơn một tháng nữa, khóa học của chúng tôi sẽ kết thúc để viết tiểu luận. Nhưng nhà trường tuyên bố đã hoàn thành chương trình và cấp giấy tốt nghiệp. Không phải nhà trường ưu ái và đặc ân gì để miễn viết tiểu luận cho chúng tôi mà vì nhiệm vụ ở miền Nam đang đòi hỏi. Đó là một bộ phận học viên khóa 7 niên khoá 1965 – 1968 Trường Cao cấp Nghiệp vụ Ngân hàng Hà Nội (nay là Học viện Ngân hàng) vào miền Nam (đi B) công tác năm 1968 theo lệnh điều động của Tổng giám đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Được vào Nam công tác là một vinh dự và trách nghiệm cao cả của người cán bộ Ngân hàng lúc bấy giờ. Chúng tôi ra đi hồ hởi không chút đắn đo, do dự. Ý thức về nhiệm vụ sắp tới rất nguy hiểm và gian khổ nhưng không hiểu sao chúng tôi không hề lo sợ, coi sự gian khổ và hy sinh một cách nhẹ nhàng gần như là tự nhiên. Bởi vậy, trước khi ra đi chúng tôi cũng không đòi hỏi cấp bằng tốt nghiệp mà vui vẻ nhận giấy chứng nhận cùng Quyết định đi B...
Tạm biệt mái trường sơ tán ở Tiền Phong và Chu Minh (Sơn Tây) chúng tôi về tập trung tại trường của Ban Thống nhất Trung ương, gọi tắt là trường 105 (Hòa Bình). Tại đây, sau gần một tháng được bồi dưỡng và học tập cấp tốc về tình hình và nhiệm vụ cách mạng Miền Nam, tập leo núi, mang vác, bắn súng, hành quân đêm, sơ cứu chấn thương, mắc võng, đào lò Hoàng Cầm… và rồi đúng vào trưa ngày 15/5/1968 chúng tôi rời Hòa Bình hướng về phía Nam.
Tôi được phân công về địa bàn Quảng Trị. Hai tỉnh Quản Trị và Thừa Thiên lúc đó chung một khu ủy, một quân khu nên cả hai tỉnh nhập trung lại tạo thành một đoàn, gọi là đoàn đi vào “Bác Đô”.
Từ trường 105 ở Hòa Bình vào đến trạm khách đón tiếp chúng tôi của khu ủy Trị Thiên Huế lúc bấy giờ ở khe Bạc Má Thừa Thiên có 800 km mà chúng tôi cả xe lẫn người đi bộ 62 ngày đêm mới đến. Từ Hòa Bình vào Bắc đường số 9 ngày nghỉ đêm đi còn từ Nam đường 9 trở vào thì ngày đi đêm nghỉ. Khi chưa vượt đường 9 thì các đoàn từ “Bác Đô” đến “B2” thỉnh thoảng còn gặp nhau trên các trạm khách giao liên hoặc các kho lương thực thực phẩm của đường 559. Còn khi vào Nam đường 9 rồi thì hầu như chúng tôi không còn liên lạc được với nhau.
Trên đường đi chúng tôi gặp không ít những gian nan và thử thách. Chúng tôi phải mang vác khá nặng (áo quần, chăn màn, gạo, súng đạn); nắng thì nóng và khát còn mưa thì đường trơn cùng những con vắt rừng. Từ trạm này đến trạm khác cung đường xa lắm là 25 km, gần thì 15 km, trung bình là 20 km nhưng không hiểu sao đi mãi từ 6 giờ sáng dến 4, 5 giờ chiều vẫn chưa đến.
Những ngày đầu ai nấy đều rã rời, hốc hác. Trên đường đi, có khi cơn sốt rét hành hạ khiến chúng tôi phải chờ qua cơn sốt mới tiếp tục hành quân. Sung sướng nhất là khi đến trạm nghỉ trời tạnh ráo, có khe suối trong, có củi khô để nấu nướng bữa cơm chiều và lo luôn cơm nước cho ngày mai, còn nếu gặp phải trời mưa, khe suối không có, củi ướt thì thật ê chề. Đã hơn một lần chúng tôi phải nhịn đói nằm chờ trời tạnh.
Có một lần, trên rừng Lào, khi đến trạm, trời quá tối, theo hướng dẫn của giao liên, chúng tôi xuống hồ lấy nước về lo bữa. Sáng hôm sau, khi trời sáng, chúng tôi đến cái hồ nước đã ăn uống đêm qua thì ôi thôi… Không cách gì nhìn được và viết lại được. Và đành phải đi tiếp đến một hồ nước khá hơn để dùng. Nhưng có lẽ đêm qua trọng điểm cầu Quảng Bình là gay go nhất, bởi đêm đó cả đoàn bị bom tọa độ và cũng là đêm đầu tiên có thương vong...
Chiến sự ở Trị Thiên Huế vào cuối năm 1968 và cả năm 1969 đã rất ác liệt và căng thẳng. Địch chiếm đóng giáp ranh, liên tiếp tổ chức các cuộc hành quân lấn chiếm, các cơ quan khu ủy lùi sâu đến tận Mường Noòng (Lào) để nương tựa, hậu cầu quá khó khăn, tiếp tế gặp ách tắc, đói ăn và bệnh tật.
Những ngày đó chúng tôi được chia 5 người/lon gạo (hoặc ngô). Để duy trì sự sống, chúng tôi phải ăn môn thục, môn vót, củ tai voi. Còn để có chất mặn thì chúng tôi phải đốt tranh lấy gio thay muối. Rồi tiếp đến là chất độc màu da cam rải xuống.
Tất cả các loại cây có mủ như: Khoai lang, sắn, đu đủ, mít… đều chết, duy nhất chỉ còn lại cây dong riềng là sống sót. Mà dong riềng thì không thể ăn lá thay cơm, muốn có củ thì phải chờ ít nhất là 4 – 5 tháng...
Đoàn chúng tôi có 21 người, dọc đường hy sinh 1; 2 người do ốm đau phải quay trở về miền Bắc; trình diện với tổ chức là 18 người. Đến cuối năm 1970, 2 đồng chí hy sinh và 5 ốm đau, bị thương cùng nhiều lý do khác đã quay trở ra miền Bắc. Mùa thu năm 1973, lại thêm 1 người hy sinh, 1 người ốm đau phải quay trở ra Bắc. Số còn lại cho đến 30/4/1975 chỉ còn 9 người sau gần 8 năm.
Tám năm ấy chúng tôi đã trải qua nhiều công việc được phân công như giữ kho, gùi hàng, giao liên, tăng gia sản xuất, vận động nuôi quân… Dù ở cương vị nào và công việc gì, tất cả chúng tôi đều hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
Chúng tôi tự hào là những cán bộ Ngân hàng được đào tạo nghiệp vụ một cách hệ thống, được giáo dục và rèn luyện nhiều về phẩm chất và đạo đức nên trong những năm ở chiến trường đã trực tiếp góp công sức, xương máu của mình cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, xứng đáng là những cán bộ cốt cán của ngành Ngân hàng mà tiêu biểu là các liệt sĩ trong đoàn chúng tôi: Hồ Thúc Trinh, Đặng Đình Hoành, Hoàng Đức Lộng, Trần Bá Diễm.
Viết lại những kỷ niệm này sau nhiều năm đất nước đã thống nhất trọn vẹn, chúng tôi luôn tự hào về những chặng đường đã chọn và mình đã đi đến cuối con đường với một sức mạnh ý chí vô song, thực hiện một nhiệm vụ cao cả, đòi hỏi sự hy sinh nhưng vẫn hăng hái, vẫn sẵn sàng với lòng tự trọng cao cả và niềm vinh dự lớn lao.