Hệ thống ngân hàng Việt Nam: Thành công và kỳ vọng
Chặng đường 70 năm hình thành và phát triển của ngành Ngân hàng Việt Nam luôn gắn liền với lịch sử hào hùng của dân tộc, trong đó, đặc biệt là 35 năm đổi mới của đất nước (từ năm 1986 đến nay).
Trong bất cứ thời kỳ nào, ngành Ngân hàng cũng đóng vai trò rất quan trọng và nổi bật, là huyết mạch của cả nền kinh tế. Mọi thành công của công cuộc bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước đều có những dấu ấn vô cùng tự hào của ngành Ngân hàng. Cùng với đó, hệ thống Ngân hàng Việt Nam với bề dày truyền thống vẻ vang của mình, cũng luôn nỗ lực, tích cực tự đổi mới, đáp ứng các yêu cầu ngày càng cao trong thời kỳ hội nhập quốc tế sâu rộng như hiện nay. Tất cả những điều đó đã củng cố vững chắc vị thế của ngành Ngân hàng Việt Nam, tạo dựng và duy trì niềm tin bền chặt trong nhân dân và cộng đồng doanh nghiệp.
Hệ thống ngân hàng hiện đang là trụ cột cung ứng vốn cho nền kinh tế |
PGS-TS. Ngô Trí Long - Chuyên gia Kinh tế:
Ổn định kinh tế vĩ mô, tạo đà phát triển
PGS-TS. Ngô Trí Long |
Giai đoạn 2016-2020 kết thúc trong bối cảnh đại dịch Covid-19 gây ra cú sốc, dẫn tới cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu chưa từng có trong nhiều thập kỷ qua. Trong bối cảnh đó, kinh tế Việt Nam nổi lên là điểm sáng hiếm hoi với những thành công trong điều hành kinh tế thực hiện mục tiêu kép “vừa phòng, chống dịch Covid-19, vừa phục hồi, phát triển kinh tế, bảo đảm đời sống nhân dân”. Năm 2020, nền kinh tế ghi nhận tốc độ tăng trưởng 2,91% (dương) - tuy thấp so với nhiều năm qua nhưng so với mức trung bình thế giới theo tính toán của IMF là (âm) -3,3% cho thấy đây là thành công đáng được ghi nhận và thực tế đã được thế giới thừa nhận.
Từ kết quả của các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô đạt được trong những năm qua và đặc biệt năm 2020, có thể thấy sự ổn định kinh tế vĩ mô đã được duy trì khá vững chắc. Kết quả đó có sự đóng góp rất quan trọng của điều hành chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng trong năm 2020 và cả những năm trước đó. Với việc điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, thận trọng, phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa và các chính sách vĩ mô khác, NHNN đã đảm bảo kiểm soát lạm phát bám sát mục tiêu Quốc hội đặt ra hàng năm, bình quân giai đoạn 2016-2020 khoảng 3,2% so với mục tiêu của Quốc hội là khoảng 4%, củng cố niềm tin của người dân vào môi trường vĩ mô ổn định và sự ổn định giá trị đồng nội tệ. Quá trình cơ cấu lại hệ thống ngân hàng, hiện đại hóa các dịch vụ ngân hàng cũng đã được NHNN kiên trì thực hiện suốt những năm qua, giúp nâng cao năng lực, chất lượng, hiệu quả hoạt động ngân hàng. Chính vì thế, khi đại dịch bùng phát, ngành Ngân hàng đã ngay lập tức triển khai được hàng loạt các giải pháp hỗ trợ chia sẻ khó khăn với doanh nghiệp và người dân bị ảnh hưởng tiêu cực bởi dịch Covid-19 như miễn, giảm lãi vay, giảm phí dịch vụ thanh toán, chuyển tiền; điều chỉnh, gia hạn thời hạn trả nợ các khoản nợ, lãi phải trả của khách hàng vay; cho doanh nghiệp, người sử dụng lao động vay lãi suất 0% để trả lương người lao động bị ngừng việc do tác động của Covid-19; đẩy mạnh cung cấp các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt để đáp ứng nhu cầu của người dân trong bối cảnh dịch bệnh. Tốc độ tăng trưởng tín dụng là 12,17% trong khi lãi suất cho vay bình quân giảm khoảng 1%/năm, có những khoản vay được áp dụng lãi suất giảm đến 2%/năm so với thời điểm trước dịch bệnh, là kết quả của những nỗ lực, đóng góp tích cực của hệ thống ngân hàng trong việc tháo gỡ khó khăn cho nền kinh tế, hỗ trợ kết quả tăng trưởng kinh tế 2,91%.
Nhiệm kỳ 2021-2025 bắt đầu với những khó khăn thách thức hiện hữu khi dịch Covid-19 vẫn đang tiếp tục diễn biến phức tạp trên toàn cầu, giá cả thị trường thế giới còn diễn biến bất thường, khó tiên lượng với xu hướng tăng, chính sách tài chính-tiền tệ của các nước có thể thay đổi khó lường phụ thuộc vào tương quan giữa khả năng kiểm soát dịch bệnh, phục hồi kinh tế và rủi ro lạm phát. Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đem lại cả thời cơ và thách thức to lớn cho phát triển kinh tế. Địa chính trị thế giới biến chuyển nhanh, gia tăng cạnh tranh chiến lược, cạnh tranh và bảo hộ thương mại, xu hướng dịch chuyển chuỗi sản xuất, thương mại toàn cầu. Trong bối cảnh đó, để góp phần thực hiện các mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nhiệm kỳ Đại hội Đảng XIII, ngành Ngân hàng cần phát huy các kết quả đạt được thời gian qua và tiếp tục đổi mới, sáng tạo để thích nghi với bối cảnh, tình hình mới. Theo đó, tôi nhận thấy một số vấn đề trọng tâm cần tập trung là:
Thứ nhất, Chính phủ, NHNN cần kiên định mục tiêu kiểm soát lạm phát, coi đây là cơ sở nền tảng và điều kiện tiên quyết cho sự ổn định kinh tế vĩ mô và tăng trưởng kinh tế bền vững. Để thực hiện mục tiêu này, chính sách tiền tệ do NHNN điều hành có vai trò trọng yếu. Thực tiễn những năm qua, nhất là khi đối phó với cú sốc Covid-19, đã minh chứng cho điều này. Chỉ khi lạm phát được kiểm soát, kinh tế vĩ mô ổn định thì doanh nghiệp và nhà đầu tư mới có thể yên tâm sản xuất kinh doanh, các nguồn lực trong nền kinh tế mới được huy động, phân bổ hiệu quả, lâu dài, tập trung vào phát triển kinh tế thay vì bị găm giữ, đầu cơ, kiếm lợi do chênh lệch giá; thu hút đầu tư nước ngoài mới có thể gia tăng mạnh mẽ. Lạm phát là thứ thuế vô hình, thước đo về sự thay đổi trong chi phí cuộc sống của người dân. Vì thế, kiểm soát lạm phát, ổn định giá cả là điều kiện tiên quyết để ổn định cuộc sống nhân dân, góp phần đảm bảo an sinh xã hội.
Thứ hai, tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa việc củng cố lại hệ thống ngân hàng theo hướng hoạt động lành mạnh, vững chắc, hiệu quả, đóng góp tích cực cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thực hiện mục tiêu đến năm 2025, nước ta là nước đang phát triển có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. Thời gian qua, trong bối cảnh nền kinh tế chịu tác động tiêu cực của đại dịch Covid-19, ngành Ngân hàng đã luôn chủ động, linh hoạt, tích cực tham gia hỗ trợ tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ doanh nghiệp và người dân bằng nhiều biện pháp. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của dịch Covid-19, điều này có thể tiềm ẩn nguy cơ rủi ro nợ xấu, đòi hỏi NHNN cần tiếp tục tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác thanh tra, giám sát ngân hàng; đồng thời, vừa phải có các biện pháp nhằm bảo vệ thành quả tái cơ cấu hệ thống, xử lý nợ xấu đã kiên trì thực hiện và đạt được những năm qua.
Thứ ba, xu hướng dịch chuyển đầu tư, thương mại, chuyển đổi số, sự phát triển các mô hình kinh doanh mới, sự thay đổi phương thức sản xuất, tiêu dùng và giao tiếp trên toàn cầu, sự phát triển mạnh mẽ của các ứng dụng khoa học công nghệ từ cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0... đã và đang tác động mạnh đến lĩnh vực thanh toán ngân hàng. Ngành ngân hàng cần chú trọng, thúc đẩy sự phát triển các sản phẩm, dịch vụ thanh toán mới theo hướng hiện đại, thân thiện với người sử dụng. Vấn đề này đã được thực hiện khá tốt trong những năm gần đây, khi chúng ta được sử dụng ngày càng nhiều các dịch vụ ngân hàng đa dạng, tiện ích hơn như thanh toán thẻ, thanh toán bằng điện thoại, thanh toán qua mạng Internet... do đó cần tiếp tục được đẩy mạnh trên cơ sở tận dụng các thành quả của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0. Tuy vậy, sự phát triển của sản phẩm dịch vụ mới trên nền tảng công nghệ cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro, dễ bị lợi dụng, biến tướng, như các hoạt động kinh doanh đa cấp tiền ảo, cho vay nặng lãi trá hình trên các nền tảng cho vay trực tuyến... đã được đề cập trên các phương tiện truyền thông thời gian qua. Điều này đòi hỏi NHNN với vai trò là cơ quan quản lý cần kịp thời ban hành các quy định quản lý liên quan, phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng khác để đưa ra các biện pháp xử lý kịp thời, đảm bảo quyền lợi chính đáng và hợp pháp của người dân.
TS.Nguyễn Đức Kiên - Tổ trưởng Tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng:
Vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế
TS.Nguyễn Đức Kiên |
70 năm qua, NHNN nói riêng và hệ thống ngân hàng Việt Nam nói chung đã có sự chuyển mình rõ rệt, từ kế hoạch hóa tập trung bao cấp sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và đã đạt được những thành tựu lớn, là một trong những động lực góp phần đưa nền kinh tế Việt Nam phát triển và giữ được ổn định vĩ mô như hôm nay.
Trong nửa chặng đường 70 năm này là 35 năm hệ thống ngân hàng cải cách và phát triển vượt bậc, thúc đẩy thị trường tiền tệ phát triển đóng góp chung vào thành tựu của nền kinh tế đất nước trong công cuộc đổi mới. Khung khổ thể chế tiền tệ cho hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng theo cơ chế thị trường không ngừng được đổi mới, hoàn thiện, cập nhật tiến dần theo thông lệ quốc tế. Nguồn vốn tín dụng ngân hàng vẫn là nguồn vốn chủ lực của nền kinh tế, dự trữ ngoại hối tăng cao, vị thế đồng tiền Việt Nam được củng cố… Hệ thống ngân hàng tiếp tục nắm giữ vai trò rất quan trọng trong hệ thống tài chính của nền kinh tế.
Đặc biệt trong 10 năm trở lại đây, có thời điểm lạm phát tăng cao và không dự báo được, nhưng chính sách tiền tệ đã góp phần quan trọng trong kiểm soát được lạm phát, đến nay lạm phát được kiểm soát và cho thấy việc điều hành chính sách những năm qua là phù hợp và có kết quả. Cũng trong 10 năm qua, đã có lúc có sóng gió lớn nhưng chúng ta đã ổn định được hệ thống, giữ được an ninh tài chính quốc gia.
Thế giới đang chuyển biến rất nhanh và hệ thống ngân hàng nói chung và NHNN đã là những người đi đầu về nỗ lực cải cách hành chính, ứng dụng khoa học công nghệ và chuyển đổi số, góp phần hạn chế tối đa chi tiêu tiền mặt trong nền kinh tế, tức là hệ thống ngân hàng đã hạn chế tối đa nền kinh tế tiền mặt. Từ đó góp phần quan trọng trong công cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng...
Tuy nhiên bên cạnh thành tựu, NHNN và hệ thống ngân hàng đang mang nhiều trách nhiệm và còn nhiều vấn đề phải giải quyết và có nhiều việc phải làm. Trong đó có việc ứng dụng thành tựu cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, đó là sử dụng trí tuệ thông minh, đó là số hóa. Dù là hệ thống đi đầu về số hóa, nhưng số hóa mới trong nghiệp vụ ngân hàng và câu hỏi đặt ra là số hóa có phải là ngân hàng số hay không? Vấn đề nữa là ngay trong thập niên này, kinh tế số phát triển, kết nối được đẩy mạnh thì hệ thống NHNN với 63 chi nhánh NHNN ở 63 tỉnh thành cần được kiện toàn như thế nào cho hiệu quả.
PGS-TS.Trần Đình Thiên - Thành viên Tổ tư vấn kinh tế của Thủ tướng:
Củng cố niềm tin của nhân dân và doanh nghiệp
PGS-TS.Trần Đình Thiên |
Trong 70 năm, hệ thống ngân hàng đã có bước phát triển vượt bậc, đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Không chỉ kiểm soát tốt lạm phát, đồng vốn tín dụng ngân hàng còn là một động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng.
Đặc biệt 5 năm gần đây càng thể hiện rõ vai trò điều hành của NHNN và đóng góp của hệ thống ngân hàng cho nền kinh tế. Theo đó, trong 5 năm qua, việc điều hành chính sách của NHNN đã giúp duy trì kinh tế vĩ mô ổn định chắc chắn, bất chấp những bất ổn trên thị trường thế giới việc thị trường tài chính toàn cầu liên tục biến động mạnh theo diễn biến của cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung và sự đảo chiều chính sách của các NHTW lớn trên thế giới. Trong sự tự tin giữ được vĩ mô ổn định trong những năm qua có phần đóng góp lớn và quan trọng của NHNN và hệ thống ngân hàng Việt Nam.
Quá trình này cho thấy bài học quý là bơm hút tiền kịp thời nhất là khi đầu tư nước ngoài đổ vào nhiều, khi có dấu hiệu bong bóng bất động sản, tỷ giá trên thế giới biến động mạnh nhưng NHNN đã điều hành tỷ giá linh hoạt, bơm - hút tiền kịp thời.
Bên cạnh đó, trong 5 năm qua, mặc dù vốn đầu tư công giải ngân rất chậm, nhưng Việt Nam vẫn đạt tốc độ tăng trưởng cao đó là nhờ vốn cung ứng từ hệ thống ngân hàng đưa vào nền kinh tế. Vĩ mô ổn định, nền kinh tế duy trì tốc độ tăng trưởng cao đã tạo nên niềm tin trong dân và từ đó khu vực tư nhân yên tâm đổ vốn để đầu tư và sản xuất kinh doanh.
Trong quá trình chuyển đổi sang kinh tế thị trường, hệ thống ngân hàng Việt Nam cũng đã chuyển đổi sang kinh tế thị trường rất nhanh và trở thành một trong những yếu tố dẫn dắt thị trường chuyển sang kinh tế thị trường và luôn là kênh cung ứng vốn chủ yếu giúp kinh tế phát triển, tạo nguồn vốn cho kinh tế tư nhân phát triển. Ngân hàng tư nhân cũng phát triển…
Trong 70 năm hoạt động vừa qua, cũng có những lúc ngân hàng đối diện với nhiều khó khăn, công tác điều hành chịu nhiều áp lực. Và trong quá trình 70 năm đó cũng đã có những bài học điều hành được rút ra và điều chỉnh để 5 năm gần đây điều hành chuẩn, đúng và tốt góp phần quan trọng giữ vững ổn định vĩ mô, ổn định tỷ giá, kiềm chế lạm phát, đưa vốn cho nền kinh tế, góp phần thúc đẩy tăng trưởng.
Nhìn lại giai đoạn sau WTO, vốn đầu tư nước ngoài FDI đổ vào mạnh mẽ… nhưng chúng ta đã không kịp trung hòa dòng vốn này, lại thêm tác động tiêu cực từ khủng hoảng tài chính toàn cầu nổ ra những năm 2007-2008 kéo dài đến tận những năm 2016-2017, lạm phát tăng cao và kéo dài nhiều năm… Từ kinh nghiệm này, gần đây NHNN đã chủ động điều hành linh hoạt, nhịp nhàng bơm hút tiền, sử dụng công cụ lãi suất và tín dụng hợp lý.. góp phần quan trọng trong kiềm chế lạm phát, ổn định vĩ mô… Đó là những việc làm nổi bật, là những bài học và kinh nghiệm giá trị.
Ông Phạm Xuân Hòe - Nguyên phó viện trưởng viện chiến lược NHNN:
10 thành tựu nổi bật trong 35 năm đổi mới
Ông Phạm Xuân Hòe |
Ngày 6/5/2021 tới đây là dấu mốc 70 năm hình thành và phát triển ngành Ngân hàng Việt Nam, trong đó nửa chặng đường là 35 năm đổi mới. Có thể điểm lại 10 thành tựu to lớn của toàn Ngành:
1. Khung khổ thể chế tiền tệ cho hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng theo cơ chế thị trường không ngừng được đổi mới, hoàn thiện, cập nhật tiến dần theo thông lệ quốc tế với 2 Luật Ngân hàng và hệ thống văn bản pháp quy khá đồng bộ hướng dẫn thực hiện.
2. Vai trò, vị thế về quản lý nhà nước của NHNN Việt Nam đồng thời cũng là NHTW của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã được pháp điển hóa, phù hợp với tổ chức bộ máy của Chính phủ.
3. Đổi mới khu vực ngân hàng và phát triển thị trường tiền tệ khẳng định tính đúng đắn về định hướng của Đảng và Nhà nước qua việc tách bạch chức năng kinh doanh với chức năng quản lý nhà nước (bằng việc hình thành hệ thống ngân hàng 2 cấp); tách bạch hoạt động giữa ngân hàng chính sách và ngân hàng thương mại (kinh doanh) từng bước xóa bỏ bao cấp qua lãi suất.
4. Tạo lập, phát triển công cụ, hàng hóa và vận hành đồng bộ thị trường tiền tệ (thị trường nội tệ, thị trường ngoại tệ liên ngân hàng); sử dụng đồng bộ, linh hoạt công cụ của chính sách tiền tệ như lãi suất tái chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn, OMO, dự trữ bắt buộc, tỷ giá trong điều tiết thị trường tiền tệ theo tín hiệu thị trường.
5. Chính sách quản lý ngoại hối từng bước được hoàn thiện đáp ứng nhu cầu của thực tiễn và yêu cầu của công tác quản lý ngoại hối của Nhà nước, phù hợp với các cam kết và lộ trình hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đồng Việt Nam; thực hiện một bước quan trọng trong quá trình giảm dần đi đến chấm dứt tình trạng đôla hóa của nền kinh tế.
6. Hệ thống các TCTD Việt Nam phát triển nhanh, đa dạng về sở hữu, mô hình quản trị dưới dạng công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, hoặc mô hình ngân hàng hợp tác xã đã lần lượt ra đời cùng với hệ thống các tổ chức tài chính vi mô đã “phủ sóng” tới các thôn bản của 63 tỉnh thành phố.
7. Quá trình đổi mới và phát triển khu vực ngân hàng tiếp tục nắm giữ vai trò rất quan trọng trong hệ thống tài chính của nền kinh tế, là kênh dẫn vốn chủ lực đối với nền kinh tế.
8. Hạ tầng thanh toán và công nghệ ngân hàng có bước phát triển vượt bậc cập nhật công nghệ tiên tiến của thế giới để từng bước chuyển đổi số; hệ thống thanh toán của nền kinh tế Việt Nam ngày càng phát triển và hiện đại.
9. Khung khổ pháp lý về giám sát và bộ máy giám sát (Cơ quan thanh tra giám sát chuyên ngành) đã có bước tiến đáng kể trong giám sát an toàn khu vực ngân hàng.
10. Hoạt động đối ngoại, hợp tác và hội nhập quốc tế phát triển cả về bề rộng và chiều sâu, chủ động tham gia với vai trò thanh viên của các tổ chức, định chế tài chính quốc tế đã nâng cao vị thế hệ thống ngân hàng Việt Nam.