Nông sản Việt Nam: Cần những đột phá trong năm 2016
Với khoảng 66% dân số nông thôn, sản xuất lúa gạo vẫn là nguồn sinh kế quan trọng của đa số dân Việt. Năm 2015, diện tích, năng suất và sản lượng lúa đều tăng, theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT), với sản lượng ước đạt gần 45,22 triệu tấn, tăng 241 nghìn tấn so với năm 2014.
Khối lượng gạo xuất khẩu gạo cả năm 2015 ước đạt gần 6,7 triệu tấn, thu về 2,85 tỷ USD, tăng 5,8% về khối lượng nhưng giảm 2,9% về giá trị so với cùng kỳ năm trước. Lượng tăng nhưng giá trị xuất khẩu trong xu hướng giảm đang đặt ra bài toán khó cho nông nghiệp Việt Nam.
Lượng tăng nhưng giá trị xuất khẩu trong xu hướng giảm đang đặt ra bài toán khó cho nông nghiệp Việt Nam |
Lời giải cho bài toán khó
Với đặc thù Trung Quốc là thị trường nhập khẩu gạo lớn nhất; các thị trường khác là Malaysia, Indonesia, Gana, Bờ Biển Ngà, Nga, Philippines… gạo Việt Nam cho thấy dư địa ở các thị trường trong khu vực và nước kém phát triển. Giá gạo xuất khẩu thấp vừa là biểu hiện của khả năng cạnh tranh kém nên phải hạ giá, vừa cho thấy tính bất ổn về xuất khẩu mặt hàng này. Và đó cũng là thách thức đặt ra cho giai đoạn phát triển tới của ngành.
Thứ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh cho biết, để đẩy mạnh xuất khẩu gạo cần nỗ lực giải quyết khó khăn trong khâu thị trường, đặc biệt là các thị trường truyền thống, thị trường tập trung.
Với các thị trường mới, đặc biệt là các thị trường có FTA, Cục Xuất nhập khẩu – Bộ Công Thương cần nghiên cứu, phân tích kỹ càng về những cơ hội đối với gạo Việt Nam khi các FTA có hiệu lực để nắm rõ yêu cầu của thị trường ra sao, thủ tục thế nào nhằm khai thác thêm các thị trường mới cho gạo Việt Nam.
Việc Việt Nam và các nước chính thức thông qua Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) khiến không ít các chuyên gia, nhà quản lý, các DN và nông dân băn khoăn, lo lắng. Với lợi thế về thổ nhưỡng và khí hậu ôn hòa quanh năm nên khu vực Đồng bằng song Cửu Long (ĐBSCL) được mệnh danh là vựa lúa, vựa thủy sản, vựa trái cây của cả nước. Nhưng khi chúng ta thực hiện các cam kết của TPP thì ngành nông sản ĐBSCL sẽ chịu nhiều áp lực.
Cơ hội cũng nhiều mà thách thức đặt ra cũng rất lớn, không chỉ về chủng loại mặt hàng, số lượng sản phẩm mà cao hơn cả là chất lượng hàng hóa nông sản sẽ là yếu tố được đặt lên hàng đầu. Vấn đề là các địa phương trong vùng ngay từ lúc này cần tính toán đến các yếu tố cần và đủ cho nông sản của khu vực khi TPP được áp dụng, trong đó sự liên kết vùng, liên kết "4 nhà" mang tính quyết định.
Hiện tại, ở ĐBSCL đang hình thành các mô hình “cánh đồng mẫu lớn”, “cánh đồng liên kết” do các DN, nông dân cùng tham gia xây dựng, bước đầu cho hiệu quả. Song về lâu dài DN sẽ không đủ sức cho chặng đường dài mà con đường tất yếu là phải để nông dân tự liên kết thông qua các mô hình tổ hợp tác, hợp tác xã để đủ sức đảm đương vai trò chủ đạo của mình trong cuộc chơi toàn cầu.
Tín hiệu đáng mừng là hiện nay các tỉnh trong vùng đều có ký kết hợp tác với TP. Cần Thơ và TP. Hồ Chí Minh, vùng kinh tế trọng điểm ĐBSCL với tứ giác: Cần Thơ - An Giang - Kiên Giang - Cà Mau đã được hình thành. Điều này cho thấy sự quyết tâm, nỗ lực để hội nhập.
Một mối liên kết nữa lâu nay đã nói nhiều là mối liên kết "4 nhà". Mô hình này đã được một số công ty, DN ở Cần Thơ, An Giang, Đồng Tháp, Hậu Giang làm khá hiệu quả nhất là mô hình liên kết "2 nhà" giữa DN và nông dân đang khẳng định xu hướng tất yếu để giành chiến thắng trong cuộc cạnh tranh như hiện nay.
Theo đó, DN hình thành nên vùng chuyên canh nguyên liệu, chuyển giao khoa học kỹ thuật, giống, vốn cho nông dân; nông dân sản xuất theo đơn đặt hàng, được bao tiêu sản phẩm với giá cả ổn định, cho thu nhập khá.
Tuy nhiên, mô hình này cũng đang thể hiện sự bất cập khi bản thân DN chủ yếu là dịch vụ, thương mại nên khó mà có đủ điều kiện, nhân lực để làm thay vai trò của Nhà nước, nhà khoa học. Do vậy việc các cấp quản lý, viện, trường tham gia tích cực vào mối liên kết này sẽ tạo ra sự phát triển bền vững.
Mô hình hợp tác xã ở nhiều nơi tại ĐBSCL trong nhiều năm qua cũng đã tạo tiếng vang trong cả nước song ở đây đó với cách vận hành máy móc cũng đã lỗi thời, biểu hiện nhiều bất cập cần được quan tâm, cải tiến cho phù hợp với xu thế mới. Bởi chỉ có con đường làm ăn tập thể trong nông nghiệp mới tạo ra sức mạnh thực sự cho nông dân và nông dân mới có cơ hội làm giàu bền vững.
Nâng cao chất lượng sản phẩm
“Điểm sáng” trong bức tranh xuất khẩu gạo chính là phân khúc gạo thơm và gạo chất lượng cao với tốc độ tăng trưởng khả quan. Đây chính là phân khúc gạo cần được chú trọng sản xuất trong thời gian tới. Bà Phan Thị Diệu Hà, Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) cho biết, phân khúc gạo thơm và chất lượng cao có sản lượng xuất khẩu tăng trưởng tương đối khả quan, phân khúc gạo trung bình và phẩm cấp thấp đã giảm đáng kể.
Trên thực tế, gạo chất lượng cao đang là phân khúc gạo được nhiều quốc gia hướng tới. Thí dụ như Campuchia là quốc gia liên tục được đánh giá có loại gạo ngon nhất thế giới và trong những năm gần đây nước này chỉ tập trung sản xuất loại gạo có chất lượng rất cao để xuất khẩu.
Nhờ đó, gạo của Campuchia đang được thị trường EU dành nhiều ưu đãi như thuế nhập khẩu chỉ ở mức 0% và không hạn chế hạn ngạch. Myanmar - quốc gia xuất khẩu gạo mới nổi - cũng là một trong những bạn hàng quen thuộc của EU với sản phẩm gạo ở phân khúc chất lượng cao.
Ông Huỳnh Minh Huệ, Tổng thư ký Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA) khẳng định: “Những minh chứng trên cho thấy, trong thời gian tới, ngành lúa gạo cần phải chuyển đổi sản xuất theo hướng tập trung vào gạo chất lượng cao, bởi đây là loại gạo đang được ưa chuộng và có tốc độ tăng trưởng xuất khẩu lớn nhất trong vài năm trở lại đây”.
Để chuyển đổi sang gạo chất lượng cao, cần phải đồng thời tiến hành cả ba khâu đó là phải có giống lúa thuần chủng xác nhận, canh tác phải tiên tiến và quản lý chất lượng sau thu hoạch phải được chú trọng, không để xảy ra tình trạng thương lái trộn lẫn nhiều loại gạo với nhau gây mất lòng tin của người tiêu dùng, ông Huệ cho biết thêm.
Đại diện của Bộ NN&PTNT nhấn mạnh, đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp đã chỉ rõ trong thời gian tới sẽ mở rộng diện tích sản xuất một số loại gạo chất lượng cao phục vụ xuất khẩu. Bên cạnh đó, Dự án chuyển đổi nông nghiệp bền vững đang triển khai sẽ giúp khu vực ĐBSCL xây dựng một số mô hình cánh đồng lớn từ đó tăng sản lượng và chất lượng gạo xuất khẩu.
Tuy nhiên, vai trò của DN trong việc liên kết với nông dân để sản xuất, nâng cao chất lượng gạo cũng phải được chú trọng bởi DN là người biết rõ nhất nhu cầu thị trường cần loại gạo nào, chất lượng ra sao.
Theo GS. Võ Tòng Xuân, mấu chốt là gạo giá trị cao phải bắt nguồn từ giống tốt. Sau đó mới đến chọn vùng trồng, rồi đến huy động nông dân trồng một giống với kỹ thuật canh tác. Cũng phải chọn ra một đội ngũ DN chuyên thu mua và sản xuất lúa gạo.
Nhiều ý kiến cho rằng, mấu chốt vấn đề là cần có vai trò của Nhà nước trong chỉ đạo, điều phối, tạo điều kiện cho nông dân tham gia các hợp tác xã, tổ chức nông nghiệp. Hiện Nhà nước đã có những chính sách hỗ trợ nông nghiệp như chính sách về tam nông, nông thôn mới nhưng lại giao cho các cơ quan hành chính thực thi nên chưa đạt hiệu quả, chưa đến đúng đối tượng cần hỗ trợ.
Các DN tiêu thụ nông sản không có thị trường, chưa được tổ chức để xúc tiến thương mại bài bản khi mà DN tự xoay xở, nông dân cũng tự ý làm sao dẫn đến hệ quả là nông nghiệp khó phát triển.
Áp dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến
TS. Võ Văn Quang, Phó chủ tịch Hiệp hội Các DN ứng dụng công nghệ cao trong nông nghiệp nhấn mạnh, sau khi đã lựa chọn sản phẩm, cần định hướng cách làm, định hình mô hình sản xuất, từ đây mới lựa chọn đúng công nghệ để sản xuất ra sản phẩm đó. Quá trình sản xuất phải tuân thủ nghiêm ngặt những quy trình, quy định của công nghệ cao. Công nghệ phải gắn liền với chất lượng và thương hiệu của sản phẩm.
Việc lựa chọn công nghệ là khâu rất quan trọng. Công nghệ sử dụng phải là công nghệ hiện đại nhất thế giới và phải phù hợp với điều kiện và trí tuệ Việt Nam, đồng thời, công tác tổ chức sản xuất và quản trị điều hành về công nghệ phải được đặt lên hàng đầu.
Theo đó, công nghệ cao phải được áp dụng một cách đồng bộ, triệt để và nhất quán vào tất cả các khâu, từ khâu đầu đến khâu cuối của quá trình sản xuất, chế biến và tiêu thụ, có như vậy thì kết cấu và quy mô của công nghệ mới không bị phá vỡ và công nghệ có thể phát huy tối đa hiệu quả khi được áp dụng vào sản xuất.
Bên cạnh đó, công nghệ sử dụng phải là công nghệ sạch, thân thiện với môi trường, vừa có tác dụng tăng hiệu quả sử dụng năng lượng, các nguồn tài nguyên đất, nước, tăng năng suất trong sản xuất, vừa có tính năng tái tạo độ màu mỡ của đất trồng, đảm bảo nguồn nước sạch và không làm phá hủy kết cấu tự nhiên của môi trường, từ đó góp phần thúc đẩy tăng trưởng xanh, giảm nhẹ biến đổi khí hậu và nâng cao đời sống cộng đồng, ông Quang cho biết thêm.
Cùng với việc quản trị về công nghệ thì quản trị nguồn nhân lực cũng là một khâu quan trọng khi thực hiện các dự án ứng dụng công nghệ cao, trong đó chú trọng đến công tác đào tạo nhân lực, đặc biệt là nhân lực chất lượng cao có thể vận hành thuần thục các loại máy móc, thiết bị, kỹ thuật, công nghệ tối tân thế giới.
Trong điều kiện hội nhập ngày càng sâu rộng hiện nay, khi mà các FTA đã và đang dần trở thành hiện thực thì cơ hội để nền kinh tế Việt Nam khởi sắc là mong muốn của tất cả mỗi người dân Việt Nam nhưng bên cạnh đó, thách thức là vô cùng to lớn đối với ngành nông nghiệp mà đặc biệt là ngành nông sản.
Bà Nguyễn Thị Huệ Trinh, Tổng giám đốc Công ty SX - TM - DV Thuận An (huyện Châu Thành, tỉnh An Giang): Doanh nghiệp còn nhiều điểm yếu Phần lớn các DN hoạt động trong lĩnh vực nông thủy sản đều là DNNVV có năng lực tài chính yếu nên trong quá trình hội nhập đã bộc lộ nhiều yếu điểm. Ngoài việc công nghệ, khoa học kỹ thuật, trang thiết bị nhà máy đã có phần lạc hậu so với những DN của nước ngoài, nhưng không đủ nguồn lực để đầu tư, trang bị mới. Còn có một khó khăn nữa, do vùng nguyên liệu của các DN chế biến xuất khẩu thủy sản hiện nay còn thiếu tính ổn định, bền vững, sự liên kết với nông dân còn lỏng lẻo. Điều này ảnh hưởng trực tiếp đến sản lượng và chất lượng sản phẩm hàng hóa xuất đi nước ngoài, nhất là một số thị trường khó tính như châu Âu, Mỹ, Nhật. Bên cạnh đó, DN còn rất thiếu thông tin về thị trường, những thay đổi về cơ chế, chính sách, quy định pháp luật khi Việt Nam tham gia các hiệp định thương mại (FTA), TPP. Điều này sẽ dẫn đến những nguy cơ tiềm ẩn về kiện tụng, tranh chấp khi làm ăn với thị trường các nước. Hay như hội nhập, mở cửa các nước giúp DN không còn lo ngại về hàng rào thuế suất (thuế bằng 0%), nhưng bên cạnh đó các hàng rào về kỹ thuật hay sự bảo hộ sản xuất trong nước của các quốc gia nhập khẩu cũng tạo nên không ít khó khăn, đòi hỏi các DN ngành thủy sản trong nước phải luôn nỗ lực tìm cách vượt qua. Ông Trần Thành Nam, Phó tổng giám đốc Tổng công ty Thương mại Sài Gòn (Satra): Cần liên kết lại Hiện nay, thị trường xuất khẩu lúa gạo của Việt Nam chủ yếu là các nước châu Á và một số nước châu Phi, do lúa gạo hàng hóa của Việt Nam chưa xây dựng được uy tín, thương hiệu. Khi Việt Nam tham gia ký kết một số hiệp định thương mại như TPP… sẽ mở rộng thị trường xuất khẩu, tạo điều kiện thuận lợi cho các DN đưa hàng hóa sang các nước trên thế giới. Song cho dù cánh cửa có rộng mở nhưng chưa chắc gì các DN lúa gạo Việt Nam đã nắm bắt được cơ hội này bởi lẽ đối với ngành sản xuất, chế biến, xuất khẩu lúa gạo từ trước đến nay đã và đang bộc lộ nhiều yếu điểm từ khâu đầu vào đến đầu ra chưa có thể khắc phục được. Dù Việt Nam là quốc gia đứng đầu về xuất khẩu lúa gạo trên thế giới nhưng thực tế ngay từ khâu quy hoạch trồng trọt cũng cho thấy nhiều bất cập. Người nông dân sản xuất manh mún, tự phát, đưa vào trồng nhiều loại giống lúa, không đảm bảo quy trình kỹ thuật dẫn đến chất lượng thấp, cho đầu ra sản phẩm thấp, giá trị thu về không cao. Trong khi đó để vươn xa được vào thị trường các nước châu Âu, Mỹ, Nhật với tiêu chuẩn, hàng rào kỹ thuật cao thì lúa gạo Việt Nam sẽ khó có thể cạnh tranh với sản phẩm cùng loại của Thái Lan, Ấn Độ, Pakistan... bởi họ đã xây dựng được thương hiệu trên thị trường lúa gạo thế giới. Trong bối cảnh như vậy, nếu để mỗi DN xuất khẩu lúa gạo tự tìm đường phát triển riêng thì khó có thể thành công bởi đây là cả một quá trình liên kết mắt xích để có thể định vị được sản phẩm trên thị trường quốc tế bằng chất lượng và giá trị chứ không chỉ là chạy đua về số lượng như trước đây. Ông Trần Văn Lĩnh, Chủ tịch HĐQT, Tổng Giám đốc CTCP Thủy sản và Thương mại Thuận Phước (TP. Đà Nẵng): Phải chuẩn bị hành trang thật tốt Việc Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng với thế giới đã và đang mở ra nhiều cơ hội, nhưng cũng đặt ra thách thức. Đơn cử, việc gia nhập TPP bên cạnh những kỳ vọng đẩy mạnh xuất khẩu vào những thị trường tiềm năng như Mỹ, Nhật Bản… DN cũng phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức, đặc biệt là phải đối mặt với hàng rào phi thuế quan, chống phá giá… Do vậy, để vượt qua những thách thức các DN đang rất cần sự hỗ trợ của các cơ quan chức năng, đặc biệt phải tạo điều kiện cho DN nâng cao năng lực cạnh tranh, giảm bớt các thủ tục hành chính, phải “xắn tay áo” gỡ khó cùng DN. Ngoài những chính sách hỗ trợ của Nhà nước, các DN trong nước sẽ còn nhiều việc phải làm, phải tự thân vận động. Trước mắt, phải nâng cao chất lượng, đặc biệt là khâu bảo quản nguyên liệu. DN cũng cần đầu tư đổi mới công nghệ, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, đa dạng hóa mặt hàng, tránh phụ thuộc vào một vài thị trường... Chuẩn bị cho mình một hành trang thật tốt, khi bước ra sân chơi lớn, DN sẽ không bị lúng túng, từ đó tận dụng mọi thời cơ để phát triển. Ông Lê Ngọc Chương, đại diện Xí nghiệp Chế biến lâm sản xuất khẩu Pisico (Tổng công ty Pisico Bình Định): Chủ động để hội nhập Với nhiều nỗ lực, nông nghiệp đã trở thành một trong những ngành có giá trị xuất khẩu hàng đầu Việt Nam. Bởi Việt Nam đã và đang tham gia hàng loạt FTA, hội nhập sâu rộng hơn với kinh tế thế giới. Tuy nhiên, nông nghiệp vẫn đang gặp nhiều khó khăn và thách thức. Thị trường đầu vào, giá các mặt hàng phục vụ cho ngành đều tăng mạnh. Công nghệ chế biến còn lạc hậu, chưa đáp ứng được đòi hỏi ngày càng cao của thị trường cũng như sự cạnh tranh gay gắt với các nước trong khu vực… Trước sức ép hội nhập, để phát triển bền vững Pisico là DN đầu tiên ở Bình Định thực hiện công tác quy hoạch sản xuất. Từ việc ổn định nguồn nguyên liệu, DN có điều kiện chọn lọc, tẩm sấy một cách kỹ lưỡng để sản xuất những sản phẩm cao cấp. Bên cạnh đó, DN còn thay đổi từ khâu thiết kế mẫu mã cho đến quy trình sản xuất sao cho phù hợp với đặc tính nguyên liệu... Thanh Tuyết - Nghi Lộc |