Phát triển hạ tầng du lịch
Bất động sản đón “sóng” du lịch | |
Hút vốn ngoại vào hạ tầng du lịch |
Du lịch được xác định là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn. Với vị thế ấy, nhu cầu đầu tư cho ngành này hàng năm khoảng 3-5 nghìn tỷ đồng. Tuy nhiên trên thực tế, nguồn vốn đổ vào đây hiện chỉ đáp ứng được 25-30%.
DN cần chủ động khơi thông nguồn vốn phát triển du lịch |
Trông chờ vào nguồn vốn Nhà nước thì rất khó để đủ đáp ứng. Giai đoạn 2011-2015, nguồn vốn cho toàn ngành du lịch chỉ đạt trên 3.500 tỷ đồng, dành hỗ trợ cho 50 địa phương. Các hạng mục hỗ trợ chủ yếu dành cho nơi khó khăn như miền Trung, Tây Nguyên, trong đó 90% vốn là làm hạ tầng giao thông, kết nối các khu du lịch, điện, nước…
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, nguồn vốn hỗ trợ này Nhà nước mong muốn đó là nguồn vốn mồi để thu hút vốn tư nhân, ODA… Nhưng ngay cả là mang tính vốn mồi thì bắt đầu từ năm 2020, đầu tư cho hạ tầng du lịch sẽ ngày càng ít đi. Chính vì vậy, đây là thời điểm cần các địa phương có thế mạnh về du lịch năng động hơn, DN quan tâm đến du lịch chủ động hơn để hợp tác khơi thông nguồn vốn phát triển du lịch.
Bàn về vấn đề này, ông Lương Hoài Nam, Phó tổng giám đốc CTCP Hàng không lưỡng dụng Ngôi Sao Việt (Vietstar Airlines) cho rằng vai trò của Nhà nước là có cơ chế chính sách đúng, chứ không cần phải lo vốn dự án. Vấn đề là làm sao để tư nhân thực hiện dự án một cách thuận lợi, không vướng mắc. “Lâu nay người ta nghĩ theo hướng Nhà nước phải làm, tư nhân không làm được thì nay cần phải thay đổi quan điểm”, ông Lương Hoài Nam nói.
Chia sẻ kinh nghiệm phát triển hạ tầng du lịch từ thực tế DN mình, ông Lê Thành Vinh, Tổng giám đốc Tập đoàn FLC cho biết, do rất quan tâm phát triển du lịch nên FLC đầu tư mạnh vào Thanh Hóa, Quảng Bình, Bình Định… nhưng hệ thống sân bay chưa đáp ứng được nhu cầu. Vì vậy, FLC đã ký với Vietjet Air để mở một đường bay từ Thanh Hoá đến Quy Nhơn. Đối với các dự án BT, FLC đều chủ động về nguồn vốn chứ chờ Nhà nước thì sẽ rất lâu.
“Như dự án đường Hồ Xuân Hương ở Thanh Hóa, lúc đầu FLC cũng được đề xuất là sẽ tài trợ cho tỉnh thực hiện dự án đó, nhằm dẹp bỏ khả năng xảy ra nạn chặt chém, tạo cơ hội để phát triển đồng bộ. Ngoài việc các khách sạn ở dọc đường Hồ Xuân Hương hưởng lợi thì FLC chúng tôi cũng hưởng lợi. Sau đó, lãnh đạo tỉnh đã quyết định xây dựng dự án này theo hình thức BT.
Cái được đã rõ rồi, hạ tầng từ Thanh Hóa đến Sầm Sơn phát triển vượt bậc, hiệu ứng rất cao. Khách đến Sầm Sơn bây giờ sẽ được nghỉ ở rất nhiều khách sạn mới, không còn cạnh tranh từ bên ngoài do sự lộn xộn đã được dọn dẹp”, ông Lê Thành Vinh cho hay.
Hiện nay, FLC khai thác một khách sạn trên 1.000 phòng tại Sầm Sơn nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu và luôn trong tình trạng “cháy phòng”. Mùa du lịch năm nay, FLC đưa vào sử dụng thêm một khách sạn 15 tầng, với gần 600 phòng nữa, đơn giản vì có cầu. Ông Lê Thành Vinh phấn khởi cho biết: “Có thể thấy dự án BT đã phát huy được hiệu quả, thu hút được nhiều khách du lịch đến Sầm Sơn”.
Đồng quan điểm Nhà nước cần xây dựng cơ chế cho DN tham gia phát triển hạ tầng du lịch, theo ông Nguyễn Quốc Anh, Phó vụ trưởng Vụ Kinh tế dịch vụ (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), việc đẩy mạnh hình thức đối tác công tư (PPP) sẽ là mô hình thu hút nguồn vốn chủ lực để phát triển hạ tầng du lịch trong thời gian tới. Hiện nay Nghị định 15/2015/NĐ-CP về đầu tư theo hình thức đối tác công tư có đề ra ưu tiên cho phát triển hạ tầng, các địa phương có thể bám sát vào đó để huy động vốn.
Tuy nhiên, ông Lê Thành Vinh cho rằng, các quy định về mô hình PPP hiện nay đã có nhiều cải thiện so với trước đây, nhưng vẫn còn nhiều vướng mắc. Chẳng hạn như danh mục thực hiện dự án BT nên mở rộng hơn. Bên cạnh đó, thủ tục thực hiện đấu thầu cũng gặp phải nhiều khó khăn, mất nhiều thời gian, trong khi chu kỳ quay vòng vốn bất động sản nghỉ dưỡng đòi hỏi phải nhanh, nếu chậm dễ thất bại.
Về vấn đề này, ông Nguyễn Văn Phúc, nguyên Phó chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Quốc hội cho hay: Nhiều DN, địa phương mong muốn nâng Nghị định 15 lên thành một đạo luật bởi qua thực hiện thì thấy còn nhiều bức xúc. Nhưng hiện nay, Quốc hội chưa có chương trình xây dựng luật này.
Khẳng định thêm lần nữa, ông Lương Hoài Nam cho rằng: “Sân bay, cảng biển tư nhân Việt Nam đều thừa sức đầu tư nếu Nhà nước có cơ chế chính sách hợp lý. Vấn đề là Nhà nước có quy hoạch cho các DN làm hay không, có tạo thuận lợi cho người ta làm hay không...”.