Xác định mức lương tối thiểu cần nhiều yếu tố
TS. Bùi Sỹ Lợi |
Buổi tối trước ngày khai mạc Diễn đàn kinh tế Mùa Thu, câu chuyện tiền lương tối thiểu tăng bao nhiều là hợp lý đã rộn lên với những ý kiến khác nhau.
Trả lời phỏng vấn của Thời báo Ngân hàng, TS. Bùi Sỹ Lợi – Phó chủ nhiệm Ủy ban Các vấn đề xã hội của Quốc hội cho rằng tăng 10% là hợp lý. Nếu tiền lương quá cao, giá thành sản phẩm sẽ đội lên khiến cho sản phẩm của Việt Nam khó cạnh tranh hơn, hàng của Việt Nam khó tiến ra thị trường thế giới hơn. Bên cạnh đó, thu ngân sách cũng sẽ khó khăn. Thế nên vấn đề là phải làm sao cân nhắc hài hoà lợi ích của người lao động, chủ sở hữu lao động và lợi ích Nhà nước.
Nhưng trước đây ông cho rằng mức tăng nên là 12%?
Mục tiêu của điều chỉnh mức tiền lương tối thiểu là phải bảo đảm nhu cầu sống tối thiểu của người lao động và gia đình họ. Với mức lương tối thiểu hiện nay chỉ đáp ứng được khoảng 70% nhu cầu sống tối thiểu. Vì thế nếu năm 2016 chỉ tăng 10% thì mức tăng năm tiếp theo phải cao hơn để đến năm 2018 tiền lương đảm bảo mức sống tối thiểu. Nếu năm 2016 tăng cao hơn 10% thì áp lực tăng của năm 2017 sẽ không cao.
Việc xác định mức lương tối thiểu theo vùng cần bám sát các yếu tố: trước hết phải bù đắp được chỉ số giá tiêu dùng (CPI) và lạm phát; thứ hai là căn cứ vào tốc độ tăng năng suất lao động và còn phải tính đến yếu tố cung cầu lao động.
Tôi nhận thấy 8 tháng đầu năm, lạm phát dưới 2%, nhưng chúng ta phải nhớ rằng CPI thường tăng vào cuối năm và dự phòng CPI những tháng cuối năm tăng khoảng 4%, cộng thêm năng suất khoảng 3,7% đến 4% thêm 2% để khuyến khích tăng năng suất lao động – yếu tố cho thấy tiền lương là đòn bẩy tăng năng suất lao động. Như vậy 10% là mức tăng hợp lý.
Hơn nữa, mức tiền lương tối thiểu còn phụ thuộc vào mức tiền lương trên thị trường lao động, nếu cung lao động nhiều hơn cầu lao động thì mức lương cao hơn, nếu cung thấp hơn cầu lao động thì tiền lương chắc chắn sẽ thấp đi.
Mục tiêu của điều chỉnh mức tiền lương tối thiểu là phải bảo đảm nhu cầu sống tối thiểu của người lao động và gia đình họ |
Thưa ông, nếu mức tăng không đáp ứng nguyện vọng của người lao động như phía công đoàn đề nghị là 16%, tiền lương dù có tăng cũng mất đi yếu tố tạo động lực tăng năng suất lao động?
Đúng là lương tăng thì mới tăng năng suất lao động được, nhưng chúng ta phải hiểu tiền lương tối thiểu là mức thấp nhất tối thiểu chủ sử dụng lao động trả cho người lao động trong điều kiện lao động bình thường, nên không đặt hoàn toàn tiền lương tối thiểu là để tăng năng suất lao động và sự phát triển kinh tế.
Như tôi đã nói, tiền lương tối thiểu gồm 3 yếu tố và còn phụ thuộc vào cung – cầu trên thị trường lao động. Lúc này người lao động nên chia sẻ với chủ sử dụng lao động. Đất nước và nền kinh tế cùng DN đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn và những thay đổi mới như tác động của tỷ giá, của đồng nhân dân tệ… Lúc này phải duy trì sự phát triển cho DN để nuôi dưỡng nguồn thu và nguồn tăng lương.
Năng suất lao động của ta quá thấp theo đánh giá của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), chỉ bằng 1/18 so với Singapore. Vậy chúng ta phải làm gì để năng suất lao động tăng lên, thưa ông?
Năng suất lao động của các quốc gia phụ thuộc rất nhiều vào cơ cấu lao động của các ngành kinh tế, vì năng suất lao động là thương số của tổng sản phẩm quốc dân (GDP) và tổng số lao động đang làm việc trong nền kinh tế quốc dân. Việt Nam hiện tại có hơn 24 triệu người làm việc trong khu vực nông nghiệp, năng suất lao động rất thấp, chỉ bằng 38% năng suất lao động bình quân của toàn xã hội. Hơn nữa, hiện nay chất lượng nguồn nhân lực của chúng ta còn rất thấp.
Theo báo cáo của Chính phủ, lao động qua đào tạo năm 2014 là 49%, trong đó lao động qua đào tạo nghề từ 3 tháng trở lên có chứng chỉ đạt 19% là một thách thức của nguồn nhân lực nước ta. Trong khi, cơ cấu nguồn nhân lực hiện nay còn bất hợp lý, tỷ lệ đại học trở lên là 1, trung học chuyên nghiệp là 1,3 và công nhân kỹ thuật chỉ 0,92%, (cơ cấu hợp lý của quốc tế là 1-4-10).
Do đó, năng suất lao động của chúng ta còn thấp so với các nước phát triển là đương nhiên. Nhưng nếu xét ở một số ngành của Việt Nam chưa chắc năng suất lao động đã thấp hơn rất nhiều so với thế giới.
Theo ông, giải pháp nào để cải thiện năng suất lao động?
Có mấy giải pháp cơ bản sau:
Thứ nhất, phân bổ hợp lý lực lượng lao động giữa các vùng miền nhằm khai thác có hiệu quả nguồn tài nguyên của đất nước và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực là động lực tăng năng suất lao động theo chiều rộng.
Thứ hai, phải tạo một bước đột phá trong việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đồng bộ với tái cơ cấu đào tạo nguồn nhân lực nhằm đảm bảo cân đối cung cầu lao động. Chính phủ nghiên cứu, xem xét để tiếp tục tăng cường các giải pháp đào tạo nguồn nhân lực có cơ cấu hợp lý và chất lượng đáp ứng với yêu cầu của thị trường lao động, cũng như yêu cầu của quá trình phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế.
Đồng thời, phải đặc biệt quan tâm phát triển chất lượng nguồn nhân lực cho khu vực nông thôn nhằm đảm bảo nhân lực cho tái cơ cấu nông nghiệp cả trồng trọt và chăn nuôi, lâm, thủy hải sản chế biến, đặc biệt là công nghiệp dịch vụ phục vụ cho nông nghiệp.
Thứ ba, cơ cấu lại năng suất lao động trong nội bộ các ngành kinh tế, đặc biệt trong khu vực nông nghiệp. Nền kinh tế của chúng ta đang chủ yếu dựa vào khai thác từ tài nguyên và thâm dụng lao động, năng suất rất thấp. Đề nghị Chính phủ có giải pháp tái cơ cấu nguồn nhân lực trong các ngành và nội bộ từng ngành để tăng năng suất lao động.
Thứ tư, đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động từ khu vực nông nghiệp sang công nghiệp, xây dựng và dịch vụ, khu vực phi chính thức sang khu vực chính thức. Hiện nay, tỷ lệ lao động trong ngành nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản của nước ta vẫn chiếm tỷ lệ cao: năm 2013: 46,9%, năm 2014: 47%. Như vậy, với tốc độ dịch chuyển như hiện nay thì rất khó có khả năng đạt mục tiêu 30% lực lượng lao động nông nghiệp vào năm 2020 và có khoảng cách còn lớn so với nhiều nước trong khu vực.
Xin cảm ơn ông về cuộc trao đổi!