Chất lượng dòng vốn FDI và cơ hội cho các nhà đầu tư ngoại
Việt Nam thu hút FDI: Cột mốc mới 2019 và dự báo 2020 | |
Giải ngân vốn FDI lần đầu tiên vượt 20 tỷ USD/năm | |
Thu hút FDI: Tiếp tục trải thảm đỏ với bộ lọc mới |
Tầm quan trọng của Nghị quyết 50-NQ/TW
Ngày 20/8/2019, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết 50-NQ/TW về “Định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài (FDI) đến năm 2030”.
Đây là lần đầu tiên, Bộ Chính trị có một nghị quyết riêng về định hướng chiến lược trong thu hút, sử dụng vốn FDI, nhằm nâng cao hiệu quả của dòng vốn này.
Theo ông Vũ Đại Thắng – Thứ trưởng Bộ Kế hoạch & Đầu tư, ngay từ những ngày đầu thực hiện cải cách, Đảng và Nhà nước ta đã có chủ trương mời gọi đầu tư nước ngoài để tận dụng những tiềm năng lợi thế của họ trong vốn đầu tư, công nghệ, thị trường.
Cần tập trung thu hút các dự án lớn, trọng điểm quốc gia, dự án công nghệ cao |
Các chủ trương của Đảng đã được cụ thể hóa bằng các bộ luật quan trọng về đầu tư nước ngoài (Luật Đầu tư nước ngoài 1987; Luật Đầu tư nước ngoài 1996; Luật Đầu tư chung 2005 và 2014). Thông qua các bộ luật này, chúng ta đã tạo một cơ sở pháp lý quan trọng trong việc tổ chức thực hiện thu hút và sử dụng nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Nguồn vốn này đã hỗ trợ quan trọng cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của nước ta, đóng góp hiệu quả cho việc tăng năng suất, tăng giá trị lao động.
Bên cạnh mặt tích cực đó, sau 30 năm, FDI cũng đã bộc lộ những hạn chế nhất định, đặc biệt là đến thời điểm này khi thế và lực của đất nước ta có nhiều thay đổi. Đã đến lúc chúng ta cần ưu tiên lựa chọn những DN, dự án phù hợp về mặt khoa học, công nghệ, môi trường.
Chính vì vậy, nghị quyết của Bộ Chính trị lần này đã đưa ra những định hướng, chủ trương về thu hút FDI trong giai đoạn tới nhằm phát huy hết hiệu quả của nguồn vốn quan trọng này. Đặc biệt, nghị quyết đã sử dụng từ “hợp tác” chứ không phải thu hút và sử dụng, thể hiện sự bình đẳng, chủ động của chúng ta trong làm việc với các đối tác nước ngoài và đề cao hơn nữa trách nhiệm của các nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư vào Việt Nam.
Thực tế, sau 30 năm thu hút dòng vốn FDI vào Việt Nam, khu vực này đã mang nhiều dấu ấn tích cực. Vốn thu hút FDI từ những năm đầu chỉ từ 1 tỷ USD vốn thực hiện, đến tháng 6/2019 đã thu hút được hơn 200 tỷ USD, gấp khoảng 200 lần. Lũy kế đến ngày 20/10/2019, cả nước có 30.136 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký 358,53 tỷ USD.
Dòng vốn FDI thu hút vào 19/21 ngành trong hệ thống phân ngành kinh tế quốc dân, trong đó lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm tỷ trọng cao nhất với 210,69 tỷ USD (chiếm khoảng 58% tổng vốn đầu tư), tiếp theo là lĩnh vực kinh doanh bất động sản với 58,5 tỷ USD (chiếm 16,3% tổng vốn đầu tư); sản xuất, phân phối điện với 23,58 tỷ USD (chiếm 6,6% tổng vốn đầu tư).
Thống kê của Bộ Kế hoạch & Đầu tư cho thấy, đã có 132 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư còn hiệu lực tại Việt Nam, trong đó đứng đầu là Hàn Quốc với tổng vốn đăng ký 66,62 tỷ USD (chiếm 18,6% tổng vốn đầu tư), Nhật Bản đứng thứ hai với 58,92 tỷ USD (chiếm 16,4% tổng vốn đầu tư), tiếp theo lần lượt là Singapore và Đài Loan, Hồng Kông.
Tuy nhiên, việc thu hút, quản lý và hoạt động đầu tư nước ngoài vẫn còn những tồn tại, hạn chế và phát sinh những vấn đề mới.
Ông Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho biết, dù thời gian qua, FDI đã trở thành một nhân tố quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế và Việt Nam đã trở thành một quốc gia thu hút vốn đầu tư thành công trên thế giới và trong khu vực. Nhưng hiệu quả của vốn đầu tư FDI vào nền kinh tế nước ta chưa tương xứng với số lượng của mức đầu tư.
Thực tế cho thấy, thể chế, chính sách về FDI của chúng ta chưa theo kịp yêu cầu phát triển. Chính sách ưu đãi còn dàn trải, thiếu nhất quán, không ổn định. Môi trường đầu tư kinh doanh, năng lực cạnh tranh tuy đã được cải thiện, nhưng vẫn còn hạn chế. Chất lượng, hiệu quả thu hút và quản lý đầu tư nước ngoài chưa cao.
Nghị quyết 50-NQ/TW có tầm quan trọng đặc biệt đối với tiến trình đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN của nước ta trong thời kỳ mới. Nghị quyết đã mở ra một thời kỳ mới, một làn sóng mới trong thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, ông Vũ Tiến Lộc nhấn mạnh.
Thu hút dòng vốn FDI lớn vào công nghệ cao
Theo quan điểm của Bộ Chính trị, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế Việt Nam, được khuyến khích, tạo điều kiện phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh với các khu vực kinh tế khác. Nhà nước tôn trọng, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của nhà đầu tư; bảo đảm hài hoà lợi ích giữa Nhà nước, nhà đầu tư và người lao động trong doanh nghiệp.
Hoàn thiện thể chế, chính sách hợp tác đầu tư nước ngoài có tính cạnh tranh cao, hội nhập quốc tế là một trong những mục tiêu tổng quát quan trọng được đặt ra.
Nghị quyết 50-NQ/TW đặt nhiệm vụ xây dựng cụ thể danh mục hạn chế, không thu hút đầu tư nước ngoài phù hợp với các cam kết quốc tế; ngoài danh mục này, nhà đầu tư nước ngoài được đối xử bình đẳng như nhà đầu tư trong nước. Khuyến khích nhà đầu tư nước ngoài gia nhập thị trường ở những ngành, lĩnh vực mà Việt Nam không có nhu cầu bảo hộ.
Xây dựng thể chế, chính sách ưu đãi vượt trội, cạnh tranh quốc tế tạo điều kiện kinh doanh thuận lợi thu hút các dự án lớn, trọng điểm quốc gia, dự án công nghệ cao... thu hút các nhà đầu tư chiến lược, các tập đoàn đa quốc gia đầu tư, đặt trụ sở và thành lập các trung tâm nghiên cứu - phát triển (R&D), trung tâm đổi mới sáng tạo tại Việt Nam.
Đặc biệt, Bộ Chính trị cũng yêu cầu nghiên cứu, xây dựng các quy định khắc phục tình trạng "vốn mỏng", chuyển giá, đầu tư "chui", đầu tư "núp bóng".
Theo Thứ trưởng Bộ Kế hoạch – Đầu tư Vũ Đại Thắng, nếu chỉ nhìn những con số để quy chụp rằng đầu tư nước ngoài lấn át trong nước thì chúng ta cần phải cân nhắc. Thay vì việc phê phán, chúng ta cần thúc đẩy chính các DN trong nước phát triển. Trong Nghị quyết 50 cũng có đề cập đến vấn đề đảm bảo tính kết nối liên thông giữa đầu tư nước ngoài với thị trường trong nước là một yêu cầu rất bắt buộc và cũng chỉ ra những định hướng rất rõ ràng.
Ngoài việc khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài chuyển giao công nghệ, khuyến khích DN nước ngoài mua hàng hóa của DN trong nước, Bộ Chính trị cũng chỉ ra những giải pháp hỗ trợ DN trong nước.
Ông Nguyễn Văn Thành – Phó chủ tịch UBND TP. Hải Phòng nhận định, tại Hải Phòng, những năm đầu chúng tôi có dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đặc biệt là khu công nghiệp Nomura, thời điểm đó làn sóng đầu tư vào Hải Phòng còn rất hạn chế, việc thu hút được DN lấp đầy KCN là cả một quá trình.
Trong thời gian vừa qua FDI cũng đóng góp khá lớn vào tổng vốn đầu tư trong nước, giải quyết 30% - 35% vị trí việc làm, đóng góp cho thu địa phương từ 17% - 20%. Đặc biệt, trong quá trình thu hút đầu tư FDI chúng tôi thấy có nhiều DN chú trọng vào việc đào tạo tại chỗ. Điểm quan trọng trong Nghị quyết 50 chính là việc chuyển giao công nghệ và trình độ quản lý, đây là điểm rất quan trọng.
Ông Vũ Tiến Lộc cho rằng, khi xác định khu vực kinh tế trong nước là nền tảng, có nghĩa FDI sẽ đóng vai trò như khu vực bổ trợ, khu vực liên kết, tích hợp với khu vực trong nước.
Khả năng tự chủ của nền kinh tế Việt Nam sẽ được quyết định bởi sự vững mạnh của khu vực kinh tế trong nước, cộng hưởng với khu vực đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, trong thể chế cần phải tính đến chuyện không nên khuyến khích các dòng vốn mỏng, công nghệ thấp. Trên thực tế dòng vốn quá nhỏ, trong lĩnh vực thấp thì DNNVV trong nước cũng có thể làm. Hãy tạo dư địa cho DN trong nước.
Trong Nghị quyết 50-NQ/TW xác định, then chốt quan trọng bậc nhất là mục tiêu trước năm 2021, Việt Nam phải lọt vào nhóm 4 của ASEAN về năng lực cạnh tranh và môi trường kinh doanh; Trước 2030, phải nằm trong nhóm 3 về năng lực cạnh tranh và môi trường kinh doanh. Như vậy, Việt Nam phải trở thành một trong những nền kinh tế dẫn đầu ASEAN về năng lực cạnh tranh và môi trường kinh doanh.
Theo ông Vũ Tiến Lộc, vấn đề quan trọng bậc nhất để cải thiện về môi trường đầu tư kinh doanh là thể chế. Đồng thời, có thể nâng cấp thúc đẩy được cả DN trong nước và DN FDI, tạo được môi trường cạnh tranh bình đẳng, thúc đẩy sự liên kết giữa DN trong và ngoài nước.