Chỉ số kinh tế:
Ngày 5/12/2025, tỷ giá trung tâm của VND với USD là 25.151 đồng/USD, tỷ giá USD tại Cục Quản lý ngoại hối là 23.944/26.358 đồng/USD. Kinh tế tháng 10 tiếp tục khởi sắc, khi sản xuất công nghiệp tăng 10,8%, gần 18 nghìn doanh nghiệp mới ra đời, đầu tư công tăng 29,1%, FDI đạt 31,52 tỷ USD. Xuất nhập khẩu đạt 81,49 tỷ USD, xuất siêu 2,6 tỷ USD, CPI tăng nhẹ 0,2%, và khách quốc tế đạt 1,73 triệu lượt, cho thấy đà phục hồi vững của kinh tế Việt Nam.
dai-hoi-cong-doan

Doanh nghiệp phản đối đề nghị điều tra chống bán phá giá đối với thép cán nóng nhập khẩu

H.D
H.D  - 
Trong buổi gặp mặt các nhà đầu tư tại Khu Liên hợp Gang thép Hòa Phát Dung Quất mới đây, ông Nguyễn Việt Thắng – Tổng Giám đốc (CEO) Tập đoàn Hòa Phát cho biết cùng với Công ty TNHH Gang Thép Hưng Nghiệp Formosa Hà Tĩnh (“Formosa Hà Tĩnh”) đã nộp đơn đề nghị khởi xướng điều tra chống bán phá giá đối với sản phẩm thép cán nóng (“HRC”) nhập khẩu từ Trung Quốc vào Việt Nam.
aa
Doanh nghiệp nói gì trước đề xuất điều tra chống bán phá giá thép cuộn cán nóng?

Phản ứng mạnh mẽ trước thông tin này, tập thể 12 doanh nghiệp tôn mạ và ống thép Việt Nam gồm Công ty Cổ phần Tập đoàn Hoa Sen, Công ty Cổ phần Thép TVP, Công ty Cổ phần Tôn Đông Á, Công ty Cổ phần Thép Nam Kim, Công ty Tôn Phương Nam, Công ty Cổ phần Tôn Pomina, Công ty Cổ phần Sản xuất Thép Vina One, Công ty Cổ phần Sản xuất Kinh doanh Thép Việt Nhật, Công ty Cổ phần Kim khí Nam Hưng, Công ty Cổ phần Thép Bình Dương, Công ty Sản xuất Lê Phan Gia Bình Dương, Công ty Cổ phần Thép Việt Thành Long An đã đồng thuận gửi công văn đến Văn phòng Chính phủ, Bộ Công Thương, Cục Phòng vệ thương mại, Hội Nhà báo Việt Nam, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam và Hiệp hội Thép Việt Nam với những lập luận phản biện cùng các kiến nghị, đề xuất liên quan đến khả năng khởi xướng điều tra và áp thuế chống bán phá giá đối với HRC nhập khẩu từ Trung Quốc.

theo các doanh nghiệp tôn mạ và ống thép Việt Nam thì lượng HRC nhập khẩu từ Trung Quốc vào Việt Nam tăng là điều tất yếu vì cung HRC nội địa không đáp ứng đủ nhu cầu.
Theo các doanh nghiệp tôn mạ và ống thép Việt Nam thì lượng HRC nhập khẩu từ Trung Quốc vào Việt Nam tăng là điều tất yếu vì cung HRC nội địa không đáp ứng đủ nhu cầu.

Công văn này nêu rõ KHÔNG có căn cứ pháp lý để đề nghị khởi xướng điều tra chống bán phá giá đối với sản phẩm HRC nhập khẩu từ Trung Quốc, đồng thời phân tích chi tiết những hậu quả cực kỳ nặng nề và nghiêm trọng sẽ xảy ra cho ngành thép nói riêng và toàn bộ nền kinh tế - xã hội Việt Nam nói chung nếu quyết định áp thuế chống bán phá giá đối với sản phẩm HRC nhập khẩu từ Trung Quốc vào Việt Nam.

03 lý do để đề nghị khởi xướng điều tra chống bán phá giá đối với sản phẩm HRC nhập khẩu từ Trung Quốc, bao gồm: Lượng nhập khẩu HRC từ Trung Quốc vào Việt Nam tăng mạnh; Giá bán HRC của Trung Quốc giảm từ 618 USD/tấn vào quý 1/2023 xuống còn 557 USD/tấn trong quý 4/2023 có dấu hiệu bán phá giá; Một số doanh nghiệp Trung Quốc bán HRC vào Việt Nam dưới giá thành, chấp nhận bán lỗ để bán được hàng, cạnh tranh không lành mạnh với các doanh nghiệp Việt Nam.

Trong khi đó, tập thể 12 doanh nghiệp tôn mạ và ống thép Việt Nam khẳng định rằng, 03 lý do nêu trên là KHÔNG có cơ sở pháp lý cũng như KHÔNG phù hợp với diễn biến thực tế thị trường để đề nghị khởi xướng điều tra chống bán phá giá sản phẩm HRC nhập khẩu từ Trung Quốc.

Theo quy định của Luật Quản lý Ngoại Thương 2017 thì lượng nhập khẩu HRC từ Trung Quốc vào Việt Nam tăng mạnh KHÔNG phải là điều kiện để đề nghị khởi xướng điều tra chống bán phá giá.

Theo Điều 78, Luật Quản lý Ngoại Thương số 05/2017/QH14, biện pháp chống bán phá giá được áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu khi thỏa mãn ĐỦ 03 điều kiện: Hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam bị bán phá giá với biên độ bán phá giá được xác định cụ thể; Ngành sản xuất trong nước bị thiệt hại đáng kể hoặc bị đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể hoặc ngăn cản sự hình thành của ngành sản xuất trong nước; Tồn tại mối quan hệ nhân quả giữa việc nhập khẩu hàng hóa bị bán phá giá ở Điều kiện 01 với thiệt hại của ngành sản xuất trong nước quy định ở Điều kiện 02.

Như vậy, lý do lượng nhập khẩu HRC từ Trung Quốc vào Việt Nam tăng mạnh hoàn toàn KHÔNG phải là một trong 03 điều kiện để đề nghị khởi xướng điều tra chống bán phá giá đối với HRC nhập khẩu từ Trung Quốc.

Trái lại, theo các doanh nghiệp tôn mạ và ống thép Việt Nam thì lượng HRC nhập khẩu từ Trung Quốc vào Việt Nam tăng là điều tất yếu vì cung HRC nội địa không đáp ứng đủ nhu cầu.

Theo dữ liệu Hải quan và Báo cáo Hiệp hội Thép Việt Nam năm 2022 và 2023, nhu cầu HRC tại Việt Nam trong 02 năm gần nhất như bảng sau:

Nguồn: Dữ liệu Hải quan và Báo cáo Hiệp hội Thép Việt Nam năm 2022 và 2023
Nguồn: Dữ liệu Hải quan và Báo cáo Hiệp hội Thép Việt Nam năm 2022 và 2023

Dữ liệu trên cho thấy tổng nhu cầu HRC tại Việt Nam năm 2022 và 2023 lần lượt là 11.525.018 tấn và 11.593.973 tấn, biến động không đáng kể, ổn định ở mức hơn 11,5 triệu tấn/năm.

Tuy nhiên, lượng HRC mà Hòa Phát và Formosa Hà Tĩnh bán cho các doanh nghiệp tôn mạ và ống thép Việt Nam tại thị trường nội địa trong năm 2022 và 2023 lần lượt là là 4.887.820 tấn và 3.402.704 tấn, giảm mạnh 1.485.116 tấn trong năm 2023.

Trong khi tổng nhu cầu HRC tại Việt Nam qua 02 năm 2022 và 2023 gần như không đổi, cung HRC nội địa giảm 1.485.116 tấn, thì lượng HRC nhập khẩu BẮT BUỘC phải tăng tương ứng với lượng giảm của cung HRC nội địa để đáp ứng đủ nhu cầu HRC tại Việt Nam.

Dữ liệu trên cho thấy lượng HRC nhập khẩu vào năm 2022 và 2023 lần lượt là 6.637.198 tấn và 8.191.269 tấn, tăng 1.554.071 tấn, xấp xỉ so với mức giảm 1.485.116 tấn của nguồn cung HRC nội địa.

Như vậy, mức tăng 1.554.071 tấn của HRC nhập khẩu trong năm 2023 là điều tất yếu để đáp ứng đủ nhu cầu HRC tại Việt Nam.

Bảng sau thể hiện tình hình nhập khẩu HRC trong năm 2022 và 2023:

Nguồn: Dữ liệu Hải quan
Nguồn: Dữ liệu Hải quan

Theo bảng trên thì lượng nhập khẩu HRC từ các quốc gia khác trong năm 2022 và 2023 lần lượt là 3.948.383 tấn và 2.784.724 tấn, giảm 1.163.659 tấn. Do đó, các doanh nghiệp tôn mạ và ống thép Việt Nam BẮT BUỘC phải tăng cường nhập khẩu HRC từ Trung Quốc để: (1) bù đắp cho mức giảm nhập khẩu HRC từ các quốc gia khác là 1.163.659 tấn, và (2) đáp ứng nhu cầu tăng nhập khẩu 1.554.071 tấn HRC do cung HRC nội địa không đáp ứng đủnhu cầu như đã trình bày ở trên.

Hệ quả tất yếu là lượng nhập khẩu HRC từ Trung Quốc năm 2023 đã tăng 2.717.730 tấn so với năm 2022 để đảm bảo đáp ứng đủ nhu cầu HRC tại Việt Nam.

Theo quy luật cung cầu của thị trường, quốc gia nào sản xuất được HRC chất lượng tốt với giá bán hợp lý sẽ xuất khẩu được nhiều HRC hơn các quốc gia khác. Trong năm 2023, HRC do các doanh nghiệp Trung Quốc sản xuất có chất lượng tốt, giá bán hợp lý, nên lượng nhập khẩu HRC từ Trung Quốc tăng nhiều hơn so với nhập khẩu HRC từ các quốc gia khác là hoàn toàn phù hợp với quy luật cung cầu của thị trường.

Lý do “Giá bán HRC của Trung Quốc giảm từ 618 USD/tấn vào quý 1/2023 xuống còn 557 USD/tấn trong quý 4/2023 có dấu hiệu bán phá giá” KHÔNG có căn cứ pháp lý để đề nghị khởi xướng điều tra chống bán phá giá.

Các doanh nghiệp tôn mạ và ống thép khẳng định rằng “giá bán giảm” và “bán phá giá” là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau, không thể bị sử dụng nhầm lẫn dẫn đến hiểu sai bản chất của vấn đề.

Giá bán HRC trên thế giới chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố khác nhau, trong đó 02 yếu tố chính là: (1) chi phí sản xuất HRC của từng quốc gia; (2) quan hệ cung cầu HRC tại từng thời điểm.

Chi phí nguyên liệu chiếm tỷ trọng lớn nhất trong chi phí sản xuất HRC. Nguyên liệu chính để sản xuất HRC là quặng sắt và than cốc. Giá quặng sắt và than cốc biến động hàng ngày theo quan hệ cung cầu trên thị trường.

Ngoài ra, chi phí năng lượng, chi phí nhân công, chi phí đầu tư máy móc thiết bị, thời gian khấu hao máy móc thiết bị và các chi phí khác phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau ở các quốc gia khác nhau. Do đó, chi phí sản xuất HRC của mỗi quốc gia sẽ khác nhau và vận động hoàn toàn khách quan theo quy luật cung cầu của cơ chế thị trường.

Quan hệ cung cầu HRC trên thế giới cũng thay đổi hàng ngày. Việc tăng cung hoặc giảm cung, hoặc tăng cầu, hoặc giảm cầu HRC tại từng thời điểm đều sẽ làm tăng hoặc giảm giá bán HRC trên thế giới. Đây là vận động hoàn toàn khách quan theo quy luật cung cầu của cơ chế thị trường.

Kết hợp 02 yếu tố chính tác động lên giá bán HRC là chi phí sản xuất ở mỗi quốc gia sẽ khác nhau và quan hệ cung cầu HRC trên thế giới thay đổi hàng ngày sẽ dẫn đến giá HRC thế giới biến động hàng ngày. Như vậy, giá bán HRC thế giới tăng hay giảm là kết quả khách quan theo quy luật cung cầu của cơ chế thị trường.

Các doanh nghiệp mạ tôn và ống thép Việt Nam cho rằng, chúng tôi đã tiến hành thu thập giá nhập khẩu HRC cập cảng Đông Nam Á theo điều khoản CFR từ tất cả các quốc gia và giá nhập khẩu HRC từ Trung Quốc vào Việt Nam từ quý 1/2023 đến quý 4/2023 thể hiện thông qua biểu đồ dưới đây:

Nguồn: Dữ liệu Hải quan nhập khẩu, Thống kê của TSI thuộc S&P Global tại website www.spglobal.com/commodityinsights
Nguồn: Dữ liệu Hải quan nhập khẩu, Thống kê của TSI thuộc S&P Global tại website www.spglobal.com/commodityinsights

Theo biểu đồ trên thì rõ ràng diễn biến giá HRC của Trung Quốc hoàn toàn phù hợp với diễn biến giá bán HRC của thị trường thế giới.

Như vậy “Giá bán HRC của Trung Quốc giảm từ 618 USD/ tấn vào quý 1/2023 xuống còn 557 USD/ tấn trong quý 4/2023” là hoàn toàn phù hợp với xu hướng giảm giá HRC của thế giới.

Trong khi đó, đối với khái niệm bán phá giá, thì theo quy định của Hiệp định Chống bán phá giá WTO (“WTO ADA”) và Luật Quản lý Ngoại Thương 2017, công thức tính biên phá giá được quy định như sau:

Doanh nghiệp phản đối đề nghị điều tra chống bán phá giá đối với thép cán nóng nhập khẩu

Trong trường hợp biên phá giá >2%, hàng hóa nhập khẩu được xác định là có bán phá giá và ngược lại, biên phá giá ≤ 2% thì không có hành vi bán phá giá.

12 doanh nghiệp tôn mạ và ống thép Việt Nam nhấn mạnh rằng, trong điều tra chống bán phá giá HRC nhập khẩu từ Trung Quốc vào Việt Nam thì Cơ quan điều tra sẽ tiến hành so sánh giá các doanh nghiệp Trung Quốc bán sản phẩm HRC tại thị trường Trung Quốc với giá các doanh nghiệp Trung Quốc bán sản phẩm HRC tại thị trường Việt Nam để tính toán biên phá giá.

Do đó, lý do “Giá bán HRC của Trung Quốc giảm từ 618 USD/ tấn vào quý 1/2023 xuống còn 557 USD/ tấn trong quý 4/2023” KHÔNG phải là dấu hiệu bán phá giá và hoàn toàn KHÔNG có cơ sở pháp lý để đề nghị khởi xướng điều tra chống bán phá giá.

Bác bỏ lý do Một số doanh nghiệp Trung Quốc bán HRC vào Việt Nam dưới giá thành, chấp nhận bán lỗ để bán được hàng, cạnh tranh không lành mạnh với các doanh nghiệp Việt Nam”.

Theo các doanh nghiệp tôn mạ và ống thép, cáo buộc này chỉ là phỏng đoán, hoàn toàn không có căn cứ và không có bất kỳ dữ liệu nào chứng minh cho cáo buộc này. Để biết các doanh nghiệp sản xuất HRC tại Trung Quốc có đang bán lỗ, bán dưới giá thành sản phẩm HRC vào Việt Nam hay không, cần có số liệu chi tiết về giá thành sản xuất HRC của các doanh nghiệp Trung Quốc.

Thực tế, không thể có một doanh nghiệp Việt Nam nào có thể tiếp cận với hồ sơ kế toán của các doanh nghiệp Trung Quốc để biết chi phí sản xuất HRC của các doanh nghiệp Trung Quốc là bao nhiêu bởi đây là các thông tin bảo mật của từng doanh nghiệp. Do đó, đây chỉ là phỏng đoán không có căn cứ để cố chứng minh Hòa Phát đang bị cạnh tranh không lành mạnh bởi HRC nhập khẩu từ Trung Quốc.

Giả định rằng có tình trạng các doanh nghiệp Trung Quốc bán HRC vào Việt Nam dưới giá thành, bán lỗ để cạnh tranh không lành mạnh với các doanh nghiệp sản xuất HRC tại Việt Nam, thì hành vi cạnh tranh không lành mạnh này KHÔNG phải là hành vi bán phá giá theo quy định của Điều 78, Luật Quản lý Ngoại Thương mà thuộc phạm vi điều chỉnh của Khoản 06, Điều 45, Luật Cạnh tranh 2018.

Một lần nữa, chúng tôi khẳng định rằng 03 lý do nêu ra là KHÔNG có cơ sở pháp lý cũng như KHÔNG phù hợp với diễn biến thực tế thị trường để đề nghị khởi xướng điều tra chống bán phá giá sản phẩm HRC nhập khẩu từ Trung Quốc - các doanh nghiêp tôn mạ và ống thép Việt Nam bày tỏ quan điểm.

H.D

Tin liên quan

Tin khác

Nông nghiệp tăng tốc xuất khẩu

Nông nghiệp tăng tốc xuất khẩu

Biến đổi khí hậu tác động mạnh mẽ lên nông nghiệp Việt Nam, từ miền núi đến đồng bằng. Trong bối cảnh khó khăn chồng chất, ngành nông nghiệp và môi trường vẫn ghi nhận tín hiệu phục hồi, đặc biệt ở xuất khẩu các mặt hàng nông, lâm, thủy sản.
Đột phá hạ tầng và chuyển đổi số cho logistics Việt Nam

Đột phá hạ tầng và chuyển đổi số cho logistics Việt Nam

Chiến lược phát triển dịch vụ logistics Việt Nam thời kỳ 2025 - 2035, tầm nhìn đến 2050 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 2229/QĐ-TTg ngày 09/10/2025. Đây là lần đầu tiên Việt Nam có một chiến lược đồng bộ, toàn diện và dài hạn về logistics, đánh dấu bước ngoặt lớn của ngành trong giai đoạn mới.
TP. Hồ Chí Minh thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ trợ trong chuỗi cung ứng toàn cầu

TP. Hồ Chí Minh thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ trợ trong chuỗi cung ứng toàn cầu

Ngày 4/12/2025, Trung tâm Xúc tiến Thương mại và Đầu tư TP.HCM (ITPC) phối hợp Hiệp hội Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam (VASI), Hiệp hội Công nghiệp hỗ trợ TP.HCM (HASI) và Viện Quản trị Chính sách và Chiến lược phát triển (IPADS) tổ chức Diễn đàn “Thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ trợ Việt Nam trong chuỗi cung ứng toàn cầu” tại Trung tâm Triển lãm Quốc tế WTC Expo, phường Bình Dương, TP.HCM.
Tuần lễ kết nối giao thương giới thiệu sản phẩm Việt Nam tại hệ thống phân phối hiện đại

Tuần lễ kết nối giao thương giới thiệu sản phẩm Việt Nam tại hệ thống phân phối hiện đại

Ngày 4/12/2025, Trung tâm Xúc tiến Thương mại và Đầu tư TP.HCM (ITPC) phối hợp Công ty TNHH AEON Việt Nam tổ chức Lễ khai mạc “Tuần lễ kết nối giao thương và không gian giới thiệu sản phẩm Việt Nam tại hệ thống phân phối hiện đại AEON Việt Nam năm 2025”. Sự kiện diễn ra tại AEON MALL Bình Tân, nằm trong chuỗi hoạt động xúc tiến thương mại thường niên hỗ trợ doanh nghiệp mở rộng đầu ra và tiếp cận hệ thống phân phối hiện đại.
VIFTA – Động lực mới cho thương mại và đầu tư Việt Nam – Israel

VIFTA – Động lực mới cho thương mại và đầu tư Việt Nam – Israel

Sau một năm chính thức có hiệu lực, Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – Israel (VIFTA) đang dần định hình vai trò là một cấu phần quan trọng trong mạng lưới hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Với mức độ cam kết sâu, thị trường tiềm năng và cấu trúc kinh tế bổ trợ, VIFTA không chỉ mở ra cơ hội xuất khẩu mà còn đặt ra yêu cầu mới về cải cách thể chế, nâng cao năng lực doanh nghiệp và hoàn thiện hệ sinh thái hỗ trợ hội nhập.
VPBank là ngân hàng duy nhất nhận hai giải thưởng tại VLCA 2025

VPBank là ngân hàng duy nhất nhận hai giải thưởng tại VLCA 2025

VPBank giành hai giải thưởng “Top 10 Báo cáo Thường niên tốt nhất – Nhóm ngành Tài chính” và “Giải Ba Báo cáo Phát triển Bền vững – Nhóm ngành Tài chính” tại VLCA 2025. Đây là minh chứng cho nỗ lực không ngừng của VPBank trong việc nâng tầm quản trị doanh nghiệp, minh bạch thông tin và thực hành ESG, đồng thời khẳng định uy tín quốc tế, vị thế tiên phong và cam kết tạo giá trị bền vững cho cổ đông, khách hàng và cộng đồng.
Khát vọng tạo giá trị bền vững từ năng lượng tái tạo của Bầu Hiển

Khát vọng tạo giá trị bền vững từ năng lượng tái tạo của Bầu Hiển

Chuẩn bị tâm thế, tiềm lực và chiến lược từ sớm, từ xa, nên khi bước vào lĩnh vực năng lượng tái tạo, T&T Group nhanh chóng nổi lên như một “ông lớn” với loạt dự án tầm quốc gia, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững, góp sức cùng Chính phủ thực hiện thành công cam kết phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Với riêng Nhà Sáng lập, Chủ tịch Điều hành Đỗ Quang Hiển, làm năng lượng sạch không phải xin dự án chỉ để kiếm lợi nhuận. Lớn hơn, đó còn là khát vọng làm ra những giá trị bền vững cho xã hội, công đồng, đất nước.
Sở hữu trí tuệ - công cụ để cạnh tranh và tăng trưởng mới

Sở hữu trí tuệ - công cụ để cạnh tranh và tăng trưởng mới

Việt Nam đang hướng tới trở thành quốc gia phát triển, thu nhập cao vào năm 2045 dựa vào năng lực đổi mới sáng tạo và sức mạnh của nền kinh tế số. Trong bối cảnh đó, tài sản vô hình, từ quyền sở hữu trí tuệ, thương hiệu, bí quyết công nghệ đến dữ liệu và phần mềm chính là “mỏ vàng” của thời đại mới.
Logistics xanh - lời giải cho sức ép chi phí và tiêu chuẩn bền vững

Logistics xanh - lời giải cho sức ép chi phí và tiêu chuẩn bền vững

Việt Nam đang đối mặt với bài toán kép: vừa phải kéo giảm chi phí logistics vốn đang ở mức cao hàng đầu khu vực, vừa phải đáp ứng các tiêu chuẩn xanh hóa ngày càng ngặt nghèo từ các thị trường xuất khẩu chủ lực. Trong bối cảnh đó, phát triển logistics xanh không chỉ là xu thế mang tính tất yếu, mà đang trở thành lời giải khả thi nhất để hóa giải cùng lúc hai áp lực lớn.
[Infographic] Từ 1/1/2026, lương tối thiểu tăng bình quân 7,2%

[Infographic] Từ 1/1/2026, lương tối thiểu tăng bình quân 7,2%

Theo quy định tại Nghị định số 293/2025/NĐ-CP, từ 1/1/2026 mức lương tối thiểu đối với người lao động làm việc theo hợp đồng lao động tăng từ 250.000 đồng - 350.000 đồng/tháng so với quy định tại Nghị định 74/2024/NĐ-CP.