Chỉ số kinh tế:
Ngày 17/12/2025, tỷ giá trung tâm của VND với USD là 25.146 đồng/USD, tỷ giá USD tại Cục Quản lý ngoại hối là 23.934/26.348 đồng/USD. Tháng 11/2025, Sản xuất công nghiệp tiếp tục phục hồi, IIP tăng 2,3% so với tháng trước và 10,8% so với cùng kỳ; lao động trong doanh nghiệp công nghiệp tăng 1%. Cả nước có 15,1 nghìn doanh nghiệp thành lập mới, 9,7 nghìn doanh nghiệp quay lại, trong khi số doanh nghiệp tạm ngừng, chờ giải thể và giải thể lần lượt là 4.859; 6.668 và 4.022. Đầu tư công ước đạt 97,5 nghìn tỷ đồng; vốn FDI đăng ký 33,69 tỷ USD, thực hiện 23,6 tỷ USD; đầu tư ra nước ngoài đạt 1,1 tỷ USD. Thu ngân sách 201,5 nghìn tỷ đồng, chi 213,3 nghìn tỷ đồng. Tổng bán lẻ và dịch vụ tiêu dùng đạt 601,2 nghìn tỷ đồng, tăng 7,1%. Xuất nhập khẩu đạt 77,06 tỷ USD, xuất siêu 1,09 tỷ USD. CPI tăng 0,45%. Vận tải hành khách đạt 565,7 triệu lượt, hàng hóa 278,6 triệu tấn; khách quốc tế gần 1,98 triệu lượt, tăng 14,2%.
dai-hoi-cong-doan

Giảm thuế giá trị gia tăng tạo động lực kích cầu, phát triển kinh tế

Trần Hương
Trần Hương  - 
Thảo luận dự thảo Nghị quyết giảm thuế giá trị gia tăng từ 10% xuống 8% chiều nay (28/5), các đại biểu đã nhấn mạnh vai trò của chính sách này trong việc kích cầu tiêu dùng, hỗ trợ doanh nghiệp, đồng thời tạo đà đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế 8% trở lên trong năm 2025. Bên cạnh đó, các đại biểu cũng đã làm rõ phạm vi, thời gian áp dụng cũng như các giải pháp đảm bảo tính minh bạch, hiệu quả, hướng tới một giai đoạn phát triển mới cho đất nước.
aa
Quang cảnh Hội trường phiên họp
Quang cảnh Hội trường phiên họp

Mở rộng phạm vi và tăng cường hiệu quả chính sách thuế

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu đầy biến động, các đại biểu Quốc hội đồng thuận rằng chính sách giảm thuế giá trị gia tăng là một giải pháp tài khóa thiết yếu, mang lại lợi ích tức thời cho cả người dân lẫn doanh nghiệp.

Đại biểu Trần Khánh Thu (Thái Bình) cho biết, trước những thách thức từ sự thay đổi trong quan hệ thương mại quốc tế, chính sách này tác động trực tiếp đến sản xuất, lưu thông và tiêu dùng, từ đó lan tỏa lợi ích đến toàn xã hội. Bà cho rằng, chính sách đặc biệt ý nghĩa khi được triển khai trước thềm Đại hội Đảng các cấp và quá trình sắp xếp chính quyền hai cấp, bởi nó không chỉ kích thích sản xuất kinh doanh mà còn động viên người dân, doanh nghiệp trong việc thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2026-2030. Hơn nữa, bà nhấn mạnh, thời gian giảm thuế kéo dài từ ngày 1/7/2025 đến hết tháng 5/2026, gấp ba lần các đợt trước, giúp tạo điều kiện để doanh nghiệp và người tiêu dùng hưởng lợi bền vững.

Tiếp nối ý kiến trên, đại biểu Nguyễn Văn Thân (Thái Bình) cho rằng, thời gian áp dụng chính sách cần đủ dài để doanh nghiệp xây dựng chiến lược dài hạn. Ông ủng hộ phương án kéo dài giảm thuế đến 31/12/2026, vì thời gian ngắn chỉ phù hợp với các tình huống khẩn cấp như dịch Covid-19. Ông cho biết, chính sách này giúp doanh nghiệp nhỏ và vừa định hướng ổn định, đưa ra các quyết sách sản xuất kinh doanh hiệu quả, từ đó góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững. Đồng thời, ông nhấn mạnh rằng thời gian kéo dài không chỉ hỗ trợ doanh nghiệp vượt khó mà còn tạo nền tảng cho sự phát triển lâu dài.

Đại biểu Nguyễn Văn Thân
Đại biểu Nguyễn Văn Thân

Cùng quan điểm, đại biểu Trần Khánh Thu (Thái Bình) đánh giá cao việc mở rộng phạm vi giảm thuế, bao gồm các sản phẩm, dịch vụ công nghệ thông tin, sản phẩm kim loại đúc sẵn, và đặc biệt là xăng dầu. Bà cho rằng, người tiêu dùng sẽ được hưởng lợi ngay từ việc giảm giá hàng hóa, trong khi doanh nghiệp giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, qua đó nâng cao sức cạnh tranh. Tuy nhiên, bà đề xuất xem xét giảm thuế suất xuống 8% cho hoạt động tín dụng, bởi điều này sẽ giúp người vay tiếp cận nguồn vốn rẻ hơn, hỗ trợ cả cá nhân lẫn doanh nghiệp, đồng thời tạo điều kiện để ngân hàng mở rộng hoạt động tín dụng. Bà cũng lưu ý rằng, mặc dù ba nhóm dịch vụ tài chính, ngân hàng, chứng khoán vẫn chịu thuế 10%, lý do không giảm thuế là hợp lý vì các lĩnh vực này không chịu thuế giá trị gia tăng và đang có tốc độ tăng trưởng tốt.

Đảm bảo minh bạch và hiệu quả trong thực thi chính sách

Để chính sách giảm thuế đạt được mục tiêu đề ra, các đại biểu nhấn mạnh tầm quan trọng của việc hoàn thiện cơ chế thực thi, đảm bảo minh bạch và lợi ích đến đúng đối tượng.

Đại biểu Dương Tấn Quân (Bà Rịa - Vũng Tàu) cho rằng, danh mục hàng hóa, dịch vụ được giảm thuế hiện chưa đủ cụ thể, gây khó khăn trong việc tra cứu và áp dụng thống nhất, đặc biệt đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Ông đề xuất Chính phủ công khai danh mục theo mã số hàng hóa (mã HS), xây dựng hệ thống tra cứu thống nhất và công bố rộng rãi trên cổng thông tin điện tử, từ đó giảm rủi ro cho doanh nghiệp cũng như cơ quan thuế. Ngoài ra, ông cho biết, các văn bản hướng dẫn áp dụng thuế trong giai đoạn chuyển tiếp thường ban hành muộn, khiến doanh nghiệp không kịp điều chỉnh hợp đồng, phần mềm, dẫn đến sai sót và bị xử phạt. Vì vậy, ông đề nghị ban hành hướng dẫn chi tiết ngay khi nghị quyết có hiệu lực, kèm quy định riêng cho các giao dịch chuyển tiếp, chẳng hạn như hợp đồng ký trước nhưng xuất hóa đơn sau.

Đại biểu Nguyễn Quang Huân (Bình Dương) cho rằng, cần đánh giá một cách khoa học về tác động của việc giảm 1% thuế giá trị gia tăng đến GDP và ngân sách nhà nước. Ông cho biết, chính sách này mang lại lợi ích lớn cho doanh nghiệp và người dân, nhưng đồng thời làm giảm thu ngân sách đáng kể, với các con số lần lượt là 51.400 tỷ đồng năm 2022, 23.000 tỷ đồng năm 2023, và 49.000 tỷ đồng năm 2024. Ông đề xuất Bộ Tài chính cung cấp số liệu cụ thể về kết quả đạt được so với khoản giảm thu, giúp đại biểu Quốc hội, cử tri và doanh nghiệp hiểu rõ cả lợi ích lẫn hạn chế, từ đó tạo sự đồng thuận và yên tâm khi triển khai. Hơn nữa, ông nêu vấn đề một số địa phương sử dụng ngân sách nợ thuế giá trị gia tăng của doanh nghiệp do không bố trí vốn thanh toán, gây khó khăn kéo dài 7-8 năm. Ông đề nghị Ban soạn thảo nghiên cứu đưa giải pháp vào nghị quyết để tháo gỡ vấn đề này, đặc biệt trong bối cảnh sắp sáp nhập tỉnh, thành, nhằm tránh rủi ro cho doanh nghiệp khi các cơ quan cũ giải thể.

Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng
Bộ trưởng Nguyễn Văn Thắng

Bộ trưởng Bộ Tài chính, đại diện Chính phủ, cho biết, chính sách giảm thuế giá trị gia tăng đã chứng minh hiệu quả trong giai đoạn Covid-19 và hậu Covid-19, góp phần kích thích tiêu dùng và thúc đẩy sản xuất kinh doanh. Ông cho rằng, dù làm giảm thu ngân sách 39.540 tỷ đồng trong sáu tháng cuối năm 2025 và 82.200 tỷ đồng trong năm 2026, chính sách này tạo ra nguồn thu mới và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế. Ông giải trình rằng các dịch vụ tài chính, ngân hàng, chứng khoán không chịu thuế giá trị gia tăng, nên không thuộc đối tượng giảm thuế.

Về vấn đề hoàn thuế chậm, ông ghi nhận ý kiến của đại biểu Nguyễn Văn Thân và cam kết rút ngắn thời gian hoàn thuế theo Luật Quản lý thuế, tối đa 40 ngày cho trường hợp kiểm tra chứng từ. Đối với danh mục giảm thuế, ông khẳng định đã triển khai ổn định, không còn vướng mắc như giai đoạn đầu. Liên quan đến ý kiến của đại biểu Nguyễn Quang Huân, ông tiếp thu đề xuất và hứa sẽ tính toán cụ thể tác động của chính sách, cung cấp số liệu thuyết phục để báo cáo Quốc hội trong tương lai.

Tại phiên thảo luận, các đại biểu Quốc hội thống nhất rằng, chính sách giảm thuế giá trị gia tăng không chỉ hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua khó khăn mà còn góp phần đạt mục tiêu tăng trưởng 8% trong năm 2025, tạo nền tảng cho giai đoạn phát triển mới. Tuy nhiên, các đại biểu cũng nhấn mạnh cần hoàn thiện danh mục hàng hóa, ban hành hướng dẫn kịp thời, kiểm soát giá bán để lợi ích đến tay người tiêu dùng, đồng thời đánh giá toàn diện hiệu quả của chính sách.

Trần Hương

Tin liên quan

Tin khác

Vai trò chiến lược của Nhơn Trạch 3 và Nhơn Trạch 4 trong vận hành chuỗi Thị Vải - Nhơn Trạch

Vai trò chiến lược của Nhơn Trạch 3 và Nhơn Trạch 4 trong vận hành chuỗi Thị Vải - Nhơn Trạch

Dự án nhà máy điện Nhơn Trạch 3 và Nhơn Trạch 4 (NT3&4) là mắt xích quan trọng của chuỗi liên kết Thị Vải – Nhơn Trạch, đồng thời là minh chứng rõ nét cho năng lực của PV Power và tầm nhìn dài hạn của Petrovietnam trong phát triển điện khí LNG. Thành công của dự án không chỉ giải được bài toán an ninh năng lượng mà còn là nền tảng để Việt Nam bước vào kỷ nguyên điện khí hiện đại, sạch và bền vững.
TP. Hồ Chí Minh thúc đẩy ngành sản xuất lương thực thực phẩm chủ lực

TP. Hồ Chí Minh thúc đẩy ngành sản xuất lương thực thực phẩm chủ lực

Chiến lược phát triển ngành chế biến lương thực thực phẩm TP. Hồ Chí Minh đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 nhằm thúc đẩy ngành lương thực thực phẩm Thành phố tiếp tục phát triển và giữ vững vai trò là một ngành sản xuất chủ lực
Quyết liệt xử lý dứt điểm IUU: Mệnh lệnh từ thực tiễn và ý chí quốc gia

Quyết liệt xử lý dứt điểm IUU: Mệnh lệnh từ thực tiễn và ý chí quốc gia

Mới đây, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính chủ trì Phiên họp lần thứ 25 của Ban Chỉ đạo Quốc gia về chống khai thác hải sản bất hợp pháp, không báo cáo và không theo quy định (IUU). Cuộc họp được kết nối trực tuyến đến 21 tỉnh, thành ven biển, thể hiện quyết tâm chính trị mạnh mẽ của cả nước trong hành trình gỡ “thẻ vàng” EC và xây dựng ngành thủy sản phát triển bền vững.
Doanh nghiệp cần chuẩn bị cho một môi trường biến động

Doanh nghiệp cần chuẩn bị cho một môi trường biến động

Trong bối cảnh kinh tế thế giới tiếp tục đối mặt với nhiều yếu tố bất định, các chuyên gia cho rằng, giai đoạn tới sẽ không còn là chu kỳ tăng trưởng thuận lợi, buộc doanh nghiệp phải chủ động thích ứng với một môi trường biến động kéo dài, nơi áp lực về vốn, lãi suất, tỷ giá và cạnh tranh ngày càng gia tăng.
Làm chủ công nghệ và ươm mầm tri thức: Petrovietnam hướng tới tăng trưởng bền vững

Làm chủ công nghệ và ươm mầm tri thức: Petrovietnam hướng tới tăng trưởng bền vững

Trong bối cảnh đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới với yêu cầu ngày càng cao về năng suất, chất lượng và hiệu quả, bài toán nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt là nhân lực khoa học – công nghệ chất lượng cao, trở thành điều kiện tiên quyết cho tăng trưởng nhanh và bền vững. Nhận thức rõ vai trò đó, Tập đoàn Công nghiệp – Năng lượng Quốc gia Việt Nam (Petrovietnam) không chỉ tiên phong làm chủ các công nghệ chiến lược mà còn chủ động xây dựng chiến lược đào tạo, ươm mầm đội ngũ cán bộ khoa học – công nghệ, từng bước hình thành thế hệ công dân tri thức năng lượng mới, đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong kỷ nguyên chuyển đổi số và chuyển đổi xanh.
Chiến lược nhân sự OPES: “Gen công nghệ” định hình hiệu suất vượt trội

Chiến lược nhân sự OPES: “Gen công nghệ” định hình hiệu suất vượt trội

Khi thị trường bảo hiểm phi nhân thọ đang chịu áp lực chuyển đổi mạnh mẽ, OPES nổi lên như một hiện tượng với định vị là một tổ chức công nghệ kinh doanh bảo hiểm. Sự khác biệt này không nằm ở khẩu hiệu, mà thấm sâu vào từng điểm chạm trong môi trường làm việc, tạo nên sức hấp dẫn riêng biệt so với các doanh nghiệp truyền thống.
Thị trường đồ chơi Việt hấp dẫn nhà đầu tư ngoại

Thị trường đồ chơi Việt hấp dẫn nhà đầu tư ngoại

Lý do thị trường đồ chơi Việt thu hút nhà đầu tư là do tiềm năng thị trường lớn với quy mô dân số hơn 100 triệu người, lực lượng lao động trẻ dồi dào, nhu cầu tiêu dùng tăng mạnh
Sầu riêng lập kỷ lục mới, dẫn đầu xuất khẩu nông sản

Sầu riêng lập kỷ lục mới, dẫn đầu xuất khẩu nông sản

Xuất khẩu sầu riêng trong 11 tháng ước đạt 3,4 tỷ USD, lập kỷ lục mới và giữ vị trí dẫn đầu nhóm nông sản. Thị trường Trung Quốc tiếp tục là động lực tăng trưởng với nhu cầu lớn và yêu cầu kỹ thuật ngày càng cao.
Cơ hội để doanh nghiệp Việt xuất khẩu vào thị trường Trung Đông

Cơ hội để doanh nghiệp Việt xuất khẩu vào thị trường Trung Đông

Hiệp định Thương mại Tự do Việt Nam - Israel (VIFTA) sau hơn một năm có hiệu lực đã đánh dấu một bước tiến mới trong hành trình mở rộng không gian kinh tế của Việt Nam. Dù là một trong những FTA “trẻ nhất” trong mạng lưới hội nhập của nước ta, VIFTA lại được đánh giá là một hiệp định có chiều sâu bởi mức độ cam kết cao, đặc biệt là về mở cửa thị trường hàng hóa và hợp tác công nghệ.
Thiếu hụt lao động toàn cầu thúc đẩy nhu cầu đối với mô hình quản lý cơ sở vật chất tích hợp

Thiếu hụt lao động toàn cầu thúc đẩy nhu cầu đối với mô hình quản lý cơ sở vật chất tích hợp

Sự thiếu hụt nhân sự đủ năng lực, cùng với tỷ lệ biến động lao động gia tăng và kỳ vọng của người lao động thay đổi, đang tạo ra khoảng cách lớn giữa nhu cầu thực tế và năng lực lực lượng lao động