Làng xứ Quảng
Sách chia làm 3 phần: Làng Quảng, Nhật ký ở làng, Không gian sống ở làng. Trong lời tựa nhà thơ Lê Minh Quốc nhận định: Có lẽ nhiều người, nhất là thế hệ trẻ cảm thấy lạ lùng khi lý giải về sự ràng buộc chằng chịt, quy ước bất thành văn tại sao con người nơi đó phải tuân theo sự chi phối chung của đời sống ở làng?
Từ văn hóa làng của mỗi làng, nếu không nhìn nhận lấy nó, như nó đã tồn tại vốn có, nên mới dẫn đến nhiều sự tréo ngoe. Ở đây, Trương Điện Thắng đôi lần thở dài trước cái cổng làng hình thành sau này. Trong tiếng thở dài ấy, anh đã nhắc lại phát biểu của kiến trúc sư Hoàng Đạo Kính: Cổng làng mang đậm ý nghĩa văn hóa, tồn tại lâu dài, còn cổng chào với khẩu hiệu lại mang tính thực dụng, nhằm tạo không khí chào đón. Vì thế mà cái cổng cũng trở nên vô hồn.
Ngay ở những bài viết đầu tiên, tác giả nhấn mạnh: “Dòng tộc và làng xã là hai yếu tố gắn liền nhau trong nhiều thế kỷ ở cả Quảng Nam và nhiều tỉnh xứ Đàng Trong. Cho dù các tộc “tiền hiền” ban đầu chỉ gồm một hai người đến khai khẩn ruộng đất, như hầu hết khi đã an cư thường về lại quê cũ đưa phần mộ của cha mẹ và dẫn dắt anh em bà con cùng đến”. Chính vì vậy: Ở làng con người không tồn tại với tư cách cá nhân độc lập, mà các hành vi luôn luôn bị chi phối và điều chỉnh từ đời sống của các làng và mối quan hệ khác trong làng. Do tính liên đới trong nhiều mối quan hệ, nhất là quan hệ thân tộc, nên người dân làng luôn tự điều chỉnh lối sống để không bị “mang tiếng”, do vậy mà đời sống và an ninh trật tự ở làng từ xưa là tương đối lành mạnh, an hòa. Văn hóa làng từ đó mà ra.
Nhật ký ở làng, là những ghi chép mới nhất qua những trải nghiệm thực tế của tác giả từ vài năm gần đây, mà tác giả chọn cách trở về làng mình theo cách riêng, mỗi tuần, tiếp xúc với nhiều người ở làng và thuật lại những chuyện mắt thấy tai nghe, để “được làm “thôn dân”, hít thở không khí trong lành, nhìn ngắm cảnh trí thoáng đãng và cảm động với mối chân tình thân thuộc chung quanh” để “ngồi chuyện trò với nhiều người trong số họ như những bạn cũ lâu ngày gặp lại và cùng nhớ lại, lắp ghép những khúc đồng dao cũ…”.
Không gian sống ở làng, bao gồm những bài viết mô tả những hình ảnh thực tại đang diễn ra ở làng quê hiện nay. Từ đường bê tông và nhà ống, ngõ nhà, lũy tre, cây cối, sông nước… đến việc làng, chạp mã… gợi nên bao hoài niệm với những người lớn tuổi xa quê, mà tác giả cho rằng “như một phép cộng của nỗi nhớ làm nên tình yêu quê hương sâu thẳm chứa chan…”. Từ đó, tác giả nêu lên nỗi băn khoăn: “nếu thiếu sự bình tĩnh về tầm nhìn văn hóa trong tổ chức thực hiện, trong quy hoạch và quản lý xây dựng, tuy chúng ta sẽ được một nông thôn mới”, chúng ta vẫn còn làng trong những tên gọi… nhưng sẽ vô tình đánh mất đi cái hồn của nông thôn; nghĩa là đánh mất đi bao nhiêu vẻ đẹp của văn hóa truyền thống. Điều đáng ghi nhận, bên cạnh nỗi băn khoăn, lo lắng về những diễn biến “nông thôn mới” ở làng quê đang ngày một gây nên những tác động tiêu cực, tác giả đã đề xuất nhiều giải pháp rất cụ thể về các vấn đề về tình làng nghĩa xóm, việc đặt tên đường ở nông thôn, việc làng, việc giỗ chạp…
Cũng trong phần lời tựa nhà thơ Lê Minh Quốc nhấn mạnh: Viết về vùng đất nơi mình sống, đã gắn bó bao giờ cũng ít nhiều mang tính chủ quan. Không sao cả. Vì ở đó, không chỉ tìm hiểu, lý giải mà còn mang tính hoài niệm nữa. Sự hoài niệm ấy, có thể khác nhau ở từng người nhưng tựu trung vẫn là một cách trình bày tình yêu chính mình dành cho quê mình. Và, với một quyển sách có tính cách nghiên cứu lẫn ghi chép thực địa, nếu đặt ra những vấn đề cần tranh luận, trao đổi thêm, vẫn là cần thiết.