Người nước ngoài không được sở hữu quá 30% số căn hộ tại một chung cư
Ảnh minh họa |
Theo đó, đối với một tòa nhà chung cư kể cả nhà ở có mục đích sử dụng hỗn hợp thì tổ chức, cá nhân nước ngoài được sở hữu không quá 30% tổng số căn hộ của tòa nhà đó. Trong trường hợp trên một khu vực mà có số dân tương đương một đơn vị hành chính cấp phường mà có nhiều tòa nhà chung cư thì tại mỗi tòa nhà, tổ chức, cá nhân nước ngoài được sở hữu không quá 30% tổng số căn hộ của tòa nhà đó nhưng tối đa không vượt quá 30% số lượng căn hộ của tất cả các tòa nhà chung cư đó.
Việc xác định số lượng nhà ở riêng lẻ (bao gồm nhà ở liền kề, biệt thự) mà tổ chức, cá nhân nước ngoài được sở hữu thực hiện theo quy định: Khu vực có số dân tương đương một đơn vị hành chính cấp phường có 1 dự án và dự án đó có số lượng nhà ở riêng lẻ dưới 2.500 căn thì tổ chức, cá nhân nước ngoài được mua và sở hữu không vượt quá 10% tổng số nhà ở riêng lẻ của dự án này;
Còn với khu vực mà có số dân tương đương một đơn vị hành chính cấp phường có 1 dự án và có số nhà ở riêng lẻ của dự án tương đương 2.500 căn thì tổ chức, cá nhân nước ngoài được sở hữu không quá 250 căn;
Khu vực mà có số dân tương đương một đơn vị hành chính cấp phường có từ hai dự án trở lên và tổng số nhà ở riêng lẻ của các dự án này dưới hoặc bằng 2.500 căn thì tại mỗi dự án, tổ chức, cá nhân nước ngoài được sở hữu không vượt quá 10% tổng số nhà ở riêng lẻ tại mỗi dự án.
Liên quan đến việc quản lý sở hữu nhà ở của tổ chức, cá nhân nước ngoài tại Việt Nam, Dự thảo Thông tư quy định: Chủ đầu tư có trách nhiệm báo cáo Sở Xây dựng nơi ó dự án theo quy định tại khoản 3 Điều 79 của Nghị định số 99/2015/NĐ-CP và báo cáo định kỳ hàng tháng hoặc đột xuất cho Sở Xây dựng về tình hình bán nhà ở cho cá nhân, tổ chức nước ngoài tại Việt Nam.
Sở Xây dựng có trách nhiệm báo cáo Bộ Xây dựng về tình hình mua bán nhà ở của cá nhân, tổ chức nước ngoài trên địa bàn theo định kỳ 06 tháng và hàng năm.
Cơ quan cấp giấy chứng nhận có trách nhiệm gửi bản sao Giấy chứng nhận kèm theo báo cáo về việc cấp Giấy chứng nhận cho cá nhân, tổ chức nước ngoài để Bộ Xây dựng, Bộ Tài nguyên và Môi trường theo dõi, quản lý theo mẫu quy định.
Dự Thảo Thông tư cũng quy định cụ thể về quản lý nhà ở của cá nhân nước ngoài khi cho thuê nhà ở. Theo đó, cá nhân nước ngoài sở hữu nhà ở tại Việt Nam nếu có nhu cầu thì được cho thuê nhà ở thuộc sở hữu của mình để sử dụng vào các mục đích mà pháp luật không cấm.
Trước khi ký hợp đồng cho thuê nhà ở 15 ngày, cá nhân nước ngoài phải gửi Đơn về việc cho thuê nhà ở đến Phòng có chức năng quản lý nhà ở cấp huyện nơi có nhà ở cho thuê. Thông báo có nội dung: Tên chủ sở hữu, địa chỉ nhà ở cho thuê, thời gian thuê, giấy tờ chứng minh quyền sở hữu đối với nhà ở cho thuê, tên tổ chức, cá nhân thuê nhà ở, mục đích sử dụng.
Trường hợp pháp luật có quy định về đăng ký kinh doanh đối với hoạt động cho thuê nhà ở thì cá nhân nước ngoài phải thực hiện đăng ký kinh doanh theo pháp luật và nộp thuế theo quy định của pháp luật về thuế thu nhập cá nhân. Trường hợp chấm dứt hợp đồng thuê nhà ở thì phải có trách nhiệm thông báo lại cho Phòng có chức năng quản lý nhà ở cấp huyện nơi có nhà ở biết để theo dõi, quản lý.
(Xem toàn văn Dự thảo Thông tư tại đây)