Chỉ số kinh tế:
Ngày 4/12/2025, tỷ giá trung tâm của VND với USD là 25.152 đồng/USD, tỷ giá USD tại Cục Quản lý ngoại hối là 23.946/26.360 đồng/USD. Kinh tế tháng 10 tiếp tục khởi sắc, khi sản xuất công nghiệp tăng 10,8%, gần 18 nghìn doanh nghiệp mới ra đời, đầu tư công tăng 29,1%, FDI đạt 31,52 tỷ USD. Xuất nhập khẩu đạt 81,49 tỷ USD, xuất siêu 2,6 tỷ USD, CPI tăng nhẹ 0,2%, và khách quốc tế đạt 1,73 triệu lượt, cho thấy đà phục hồi vững của kinh tế Việt Nam.
dai-hoi-cong-doan

Phòng, chống tiền giả, bảo vệ tiền Việt Nam

Hà Trang
Hà Trang  - 
NHNN đang lấy ý kiến đóng góp cho Nghị định về phòng, chống tiền giả và bảo vệ tiền Việt Nam.
aa

Phát biểu tại cuộc họp với Ban soạn thảo, Tổ biên tập xây dựng dự thảo Nghị định hôm 11/8, Phó Thống đốc Thường trực Đào Minh Tú, Trưởng Ban soạn thảo cho biết, ngày 30/6/2003 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 130/2003/QĐ-TTg về việc bảo vệ tiền Việt Nam (Quyết định 130). Những năm qua Quyết định 130 đã đóng góp quan trọng nâng cao vai trò, trách nhiệm của các Bộ, ngành chức năng, các tổ chức, cá nhân trong công tác bảo vệ tiền Việt Nam.

Tuy nhiên, sau thời gian 17 năm thi hành, một số quy định tại Quyết định 130 không còn phù hợp với quy định pháp luật hiện hành. Do đó, việc xây dựng, ban hành dự thảo Nghị định về phòng, chống tiền giả và bảo vệ tiền Việt Nam là cần thiết, nhằm tăng cường sự phối hợp giữa các đơn vị chức năng của cơ quan công an, quân đội, hải quan và NHNN trong triển khai thực hiện công tác này.

phong chong tien gia bao ve tien viet nam
Ảnh minh họa

Dự thảo Nghị định gồm Dự thảo Nghị định được thiết kế thành 6 chương, 28 điều với nội dung cơ bản: Chương I – Quy định chung; Chương II – Quy định về phòng, chống tiền giả; Chương III – Hủy hoại tiền Việt Nam trái pháp luật; Chương IV - Quản lý sao, chụp tiền Việt Nam; Chương V - Quyền, trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong phòng, chống tiền giả và bảo vệ tiền Việt Nam; và Chương VI - Điều khoản thi hành. Ban soạn thảo cho biết, cùng với sự phát triển nhanh của công nghệ in, sao chụp, xử lý hình ảnh và internet, việc làm tiền giả dễ dàng thực hiện hơn, kỹ thuật làm giả cũng ngày càng tinh vi hơn. Tiền giả không chỉ được sản xuất ở nước ngoài, mà gần đây cơ quan chức năng đã phát hiện tiền giả được sản xuất tại một số địa phương như: Đăk Nông, TP. Hồ Chí Minh, Nam Định... Trong những năm qua, lực lượng công an, bộ đội biên phòng đã phát hiện, triệt phá hàng nghìn vụ liên quan đến tiền giả, thu giữ nhiều tang vật liên quan. Lượng tiền giả thu giữ qua cơ quan chức năng và hệ thống ngân hàng lên đến hàng chục tỷ đồng tiền giả.

Theo Quyết định số 130, Bộ Công an chịu trách nhiệm chính và toàn diện trong công tác đấu tranh, phòng, chống tiền giả; NHNN, Bộ Quốc phòng và Bộ Tài chính phối hợp hướng dẫn và chỉ đạo các đơn vị liên quan trong việc xử lý các trường hợp tiền giả, tiền nghi giả và trong công tác đấu tranh phòng, chống tiền giả và bảo vệ tiền Việt Nam. Tuy nhiên, do thủ đoạn của tội phạm tiền giả ngày càng tinh vi, nên Ban soạn thảo cho rằng cần bổ sung trách nhiệm của các lực lượng khác thuộc quân đội (không chỉ riêng lực lượng bộ đội biên phòng như quy định tại Quyết định số 130 hiện nay) và tăng cường công tác phối hợp, kịp thời trao đổi thông tin về tiền giả giữa các cơ quan chức năng.

Nội dung đáng chú ý khác của Dự thảo là các quy định về sao chụp, sử dụng hình ảnh đồng tiền Việt Nam. Thực tế cho thấy, tiền Việt Nam không chỉ bị làm giả mà còn bị sử dụng trái quy định, không đúng mục đích; hay trên thị trường đã xuất hiện "tiền giấy đồ chơi" là các ấn phẩm có in hình ảnh đồng tiền Việt Nam trên giấy cứng hoặc nhựa được mua bán công khai với tính chất là đồ chơi. Một số đối tượng sử dụng tiền âm phủ in hình ảnh đồng tiền Việt Nam, có kích thước tương đương tiền thật để trà trộn trong giao dịch mua bán, trao đổi hàng hóa…

Để ngăn chặn và làm cơ sở để xử lý các hành vi này, dự thảo Nghị định đưa các quy định cụ thể về tiêu chuẩn, điều kiện sao chụp tiền Việt Nam (Điều 180) như: Việc sao, chụp hình ảnh tiền Việt Nam không nhằm mục đích thương mại, không thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào trừ trường hợp dùng để viết báo, trong chương trình phát thanh, truyền hình, phim tài liệu hoặc lưu trữ trong thư viện với mục đích nghiên cứu hoặc chụp ảnh, truyền hình về đồng tiền Việt Nam được trưng bày tại nơi công cộng nhằm giới thiệu, tuyên truyền về đồng tiền Việt Nam.

Ngoài ra, khi sao chụp phải đảm bảo đồng thời đáp ứng một trong các tiêu chuẩn sau: Sao, chụp không vượt quá 1/3 diện tích mặt trước hoặc mặt sau tờ tiền; Sao, chụp hình ảnh một mặt đồng tiền Việt Nam với kích thước chiều dài và chiều rộng đối với tiền giấy, đường kính đối với tiền kim loại nhỏ hơn 75% hoặc lớn hơn 150% kích thước của tiền thật cùng mệnh giá; Sao, chụp hình ảnh hai mặt đồng tiền Việt Nam với kích thước chiều dài và chiều rộng đối với tiền giấy, đường kính đối với tiền kim loại nhỏ hơn 50% hoặc lớn hơn 200% kích thước của tiền thật cùng mệnh giá; Sao, chụp hình ảnh thành bản điện tử để đưa lên không gian mạng có độ phân giải tối đa không vượt quá 72dpi với kích thước tương đương tiền thật cùng mệnh giá…

Tiền Việt Nam bị làm giả làm giảm giá trị của đồng tiền do NHNN Việt Nam phát hành, tác động đến an ninh tiền tệ quốc gia, giảm lòng tin của người dân vào chính sách, công tác quản lý, điều hành tiền tệ của nhà nước. Bởi vậy việc xây dựng, ban hành Nghị định thay thế Quyết định 130 là cần thiết nhằm đảm bảo hành lang pháp lý nhằm nâng cao trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế - xã hội trong việc phát hiện, thu giữ tiền giả, tiền nghi giả, giám định tiền giả, tiền nghi giả, giao nhận, bảo quản, vận chuyển, tiêu hủy tiền giả và công tác bảo vệ tiền Việt Nam, khắc phục những bất cập trong công tác phòng, chống tiền giả và bảo vệ tiền Việt Nam, góp phần đảm bảo an ninh tiền tệ quốc gia.

Hà Trang

Tin liên quan

Tin khác

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 4 (1903 -1907)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 4 (1903 -1907)

Căn cứ vào Nghị định ngày 21/01/1875, Nghị định 20/02/1888, 16/5/1900 và Sắc lệnh ngày 10/6/1903, Ngân hàng Đông Dương cho in thêm và phát hành tiền giấy các mệnh giá: 1 piastre, 5 piastres, 20 piastres và 100 piastres.
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 3 (1898-1903)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 3 (1898-1903)

Căn cứ vào hai Nghị định ngày 21/01/1875 và 20/02/1888, Ngân hàng Đông Dương tiếp tục cho in thêm và phát hành tiền giấy các mệnh giá 1 piastre, 5 piastres, 20 piastres và 100 piastres theo yêu cầu của Bộ thuộc địa Pháp. Về cơ bản, họa tiết, kích thước và chất liệu giấy của các tờ tiền này không thay đổi so với kỳ 2, riêng tờ 1 piastre có nền màu xanh được đổi thành màu đỏ. Ngoài ra, 3 loại mệnh giá 5 piastres, 20 piastres và 100 piastres có in trực tiếp địa danh nơi phát hành trên tờ tiền
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 2 (1893-1896)

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923: Phát hành kỳ 2 (1893-1896)

Hiệp ước Quý Mùi, còn gọi Hiệp ước Hác - Măng (Har-mand), ký ngày 25/8/1883 giữa thực dân Pháp và triều đình nhà Nguyễn đã chính thức thừa nhận sự bảo hộ của Pháp ở Bắc và Trung Kỳ, cắt tỉnh Bình Thuận ra khỏi Trung Kỳ để nhập vào Nam Kỳ thuộc Pháp. Ba tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh được sáp nhập vào Bắc Kỳ. Triều đình nhà Nguyễn chỉ còn cai quản vùng đất Trung Kỳ, nhưng mọi việc đều phải thông qua viên Khâm sứ Pháp ở Huế. Trên cơ sở 2 Nghị định ban hành ngày 21/01/1875 và 20/02/1888 và để củng cố vai trò cai trị, Ngân hàng Đông Dương tiếp tục in thêm và phát hành ba loại mệnh giá tương tự như tiền giấy giai đoạn 1875 - 1893, nhưng có một số đặc điểm khác như sau:
Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923

Tiền giấy phát hành giai đoạn 1875-1923

Một năm sau ngày thành lập chi nhánh Ngân hàng Đông Dương tại Sài Gòn (ngày 10/4/1875), song song với việc phát hành tiền kim loại, Ngân hàng Đông Dương đã cho phát hành tiền giấy. Tiền giấy của Ngân hàng Đông Dương được ấn định giá trị song bản vị vàng và bạc đáp ứng các chức năng của tiền tệ. Ưu điểm của tiền giấy là có thể in nhiều mệnh giá khác nhau, tiện lợi cho việc lưu thông, cất trữ và thu hồi. Vì vậy, trong thời kỳ 10 năm đầu thế kỷ XX, giá trị tiền giấy chiếm tới 85% tổng giá trị tiền đưa vào lưu thông. Tuy nhiên, tại Việt Nam, do người dân vẫn có thói quen tiêu dùng tiền kim loại truyền thống hình tròn lỗ vuông bằng đồng hoặc kẽm hoặc kim loại quý của triều Nguyễn, nên tiền giấy trong giai đoạn đầu chủ yếu chỉ lưu hành ở một vài thành phố lớn như Hà Nội, Sài Gòn, Hải Phòng và thường được đóng dấu hoặc viết tay địa danh phát hành.
Tiền phát hành chung cho ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia (1953 - 1955)

Tiền phát hành chung cho ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia (1953 - 1955)

Ngày 30/8/1945, sau Cách mạng Tháng Tám, Bảo Đại thoái vị, làm cố vấn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ngày 8/3/1949, ông ký với Tổng thống Pháp thỏa thuận công nhận Việt Nam, Lào, Campuchia độc lập trong Liên bang Đông Dương thuộc Liên hiệp Pháp. Từ đó, Pháp ngừng phát hành tiền Đông Dương, năm 1951 cho phép ba nước phát hành riêng, lưu thông chung. Ở Việt Nam, thời Bảo Đại có bộ tiền nhôm 1953 mệnh giá 10, 20, 50 xu, hay còn gọi là “đồng xu Ba cô”. Đồng 50 xu: mặt trước ba thiếu nữ, dòng “QUỐC GIA VIỆT NAM” và năm 1953; mặt sau ghi mệnh giá, và chữ “VIỆT NAM”.
Tiền Đông Dương giai đoạn thực dân Pháp xâm lược Việt Nam lần thứ hai (1945 – 1954): Tiền bằng nhôm

Tiền Đông Dương giai đoạn thực dân Pháp xâm lược Việt Nam lần thứ hai (1945 – 1954): Tiền bằng nhôm

Ngân hàng Đông Dương phát hành bộ tiền xu nhôm gồm các mệnh giá 20 cent, 10 cent và 5 cent để thay thế tiền hợp kim trước đó. Đồng 20 cent (1945) giữ nguyên họa tiết cũ, được đúc tại ba xưởng ở Pháp: Paris (không ký hiệu), Beaumont–Le Roger (B) và Castelsarrasin (C), với kích thước 27 mm, dày 1,7 mm và nặng 2,2 g. Đồng 10 cent (1945) có thiết kế tương tự, do Paris và Beaumont–Le Roger sản xuất, đường kính 23 mm, dày 1,5 mm và nặng 2,2 g. Năm 1946, đồng 5 cent được phát hành, vẫn đồng bộ về họa tiết, đúc tại Paris và Beaumont–Le Roger, kích thước 18 mm, dày 1,3 mm, nặng 0,8 g. Bộ tiền xu phản ánh sự thay đổi vật liệu và tiêu chuẩn đúc thời hậu chiến.
Tiền Đông Dương giai đoạn thực dân Pháp xâm lược Việt Nam lần thứ hai (1945 – 1954): Tiền hợp kim niken - đồng

Tiền Đông Dương giai đoạn thực dân Pháp xâm lược Việt Nam lần thứ hai (1945 – 1954): Tiền hợp kim niken - đồng

Ngày 23/9/1945, thực dân Pháp tái chiếm Sài Gòn, sau đó mở rộng ra đánh chiếm toàn Nam Bộ, khôi phục lại chế độ thực dân cai trị ở miền Nam. Ngân hàng Đông Dương được khôi phục lại ở Nam Kỳ và tiếp tục phát hành tiền tệ trong vùng chiếm đóng.
Tiền Đông Dương - Indochine (1885 - 1945): Tiền bằng nhôm, tiền bạc ngoại thương

Tiền Đông Dương - Indochine (1885 - 1945): Tiền bằng nhôm, tiền bạc ngoại thương

Năm 1943, Ngân hàng Đông Dương cho đúc hai loại đồng xu mệnh giá 5 cent chất liệu nhôm, hình tròn, lỗ tròn ở giữa. Hai đồng xu này chỉ khác nhau ở chỗ: một loại cạnh có răng cưa và loại kia không có răng cưa. Riêng loại có răng cưa hiện rất hiếm gặp.
Tiền Đông Dương - Indochine (1885 - 1945): Tiền bằng kẽm

Tiền Đông Dương - Indochine (1885 - 1945): Tiền bằng kẽm

Tiền 1 cent: Trong hai năm 1940 và 1941, Ngân hàng Đông Dương cho đúc tại Hà Nội (Việt Nam) 3 loại tiền xu hình tròn, lỗ tròn ở giữa, chất liệu kẽm với mệnh giá 1 cent. Các đồng xu đều có đường kính 28,3mm, dày 1,6mm và trọng lượng 5,2gr.
Tiền Đông Dương - Indochine (1885 - 1945): Tiền niken và hợp kim niken - đồng

Tiền Đông Dương - Indochine (1885 - 1945): Tiền niken và hợp kim niken - đồng

Tiền 20 cent: Năm 1939, Ngân hàng Đông Dương đã cho đúc 3 loại đồng xu hình tròn có mệnh giá 20 cent bằng hợp kim niken - đồng, bao gồm đồng 1939 (a) xẻ rãnh (dọc cạnh đồng tiền, phía trong rãnh có hình x..x),đồng 1939 (a) không xẻ rãnh và đồng 1941S không xẻ rãnh.