Thắt lại sợi dây liên kết đầu tư nước ngoài
Đầu tư nước ngoài năm 2019: Thận trọng trước các xu hướng mới | |
Thu hút FDI: Tiếp tục trải thảm đỏ với bộ lọc mới |
Tỷ lệ nội địa hóa tại các DN FDI còn thấp |
“Chúng tôi có bia uống, thì các bạn cũng sẽ có coca để uống”, câu ví von của một số nhà đầu tư nước ngoài về đầu tư của họ tại Việt Nam từ những ngày đầu tiên cách đây hơn 30 năm, dù chưa thật chuẩn nhưng đã thể hiện sự mong muốn liên kết của họ với các đối tác Việt Nam để cùng thành công. Tuy vậy, đến nay sợi dây liên kết giữa hai khu vực DN trong nước và DN nước ngoài vẫn còn khá lỏng lẻo, khiến nguyên tắc cùng thắng “win - win” chưa đạt như kỳ vọng.
Một cơ hội giải nhiều bài toán khó
Ngày 20/8/2019, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Nghị quyết số 50-NQ/TW về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030, trong đó nhấn mạnh tới vấn đề liên kết giữa đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước như một nhiệm vụ xuyên suốt đối với công tác quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài trong giai đoạn tới.
Cho đến nay, việc thu hút và thúc đẩy khu vực đầu tư nước ngoài đóng góp nhiều hơn cho nền kinh tế trong nước về thực chất vẫn dựa trên nguyên tắc “hợp tác cùng phát triển”, vì nếu thiếu sự hợp tác này thì sẽ không có lĩnh vực đầu tư quốc tế nào có thể thành công. Nguyên tắc này cũng rất phù hợp với giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng của Việt Nam hiện nay. Trước ảnh hưởng của cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung đến dòng vốn đầu tư quốc tế, không chỉ các quốc gia tiếp nhận đầu tư, mà cả các quốc gia có đầu tư ra nước ngoài và các nhà đầu tư nước ngoài đều phải tôn trọng hơn nguyên tắc hợp tác cùng phát triển này. Theo đó, trong tiếp nhận đầu tư nước ngoài không thể để lọt bất kỳ đối tác nào chỉ biết làm lợi cho mình.
Việc thắt chặt lại liên kết giữa DN trong nước với DN nước ngoài tại Việt Nam theo nguyên tắc hợp tác cùng phát triển cũng sẽ giúp giải quyết nhiều vấn đề hạn chế của nền kinh tế hiện nay, như phát triển công nghiệp hỗ trợ, nâng cao giá trị sản xuất nội địa của hàng xuất khẩu, thu hẹp khoảng cách giữa các địa phương, lựa chọn các ngành mũi nhọn trong tương lai…
Trước hết, để hợp tác cùng phát triển với DN nước ngoài có hiệu quả trong giai đoạn tới, Việt Nam cần có chính sách rõ hơn về định hướng ngành và lĩnh vực thu hút đầu tư nước ngoài, tiếp tục “trải thảm đỏ” mời gọi đầu tư nước ngoài nhưng với bộ lọc mới để lựa chọn được các nhà đầu tư, các dự án đầu tư phù hợp với định hướng thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam trong cả ngắn hạn và dài hạn.
Trong ngắn hạn, việc lựa chọn lĩnh vực thu hút đầu tư nước ngoài cần cân đối, hài hòa với điều kiện hiện tại của Việt Nam, đảm bảo các mục tiêu như tăng trưởng, tạo việc làm, phù hợp với năng lực của cơ sở hạ tầng, với trình độ của số đông lao động hiện nay tại từng địa phương (lao động giản đơn, lao động phổ thông chiếm số đông…).
Bên cạnh đó, cần đặt mục tiêu phát triển đồng đều kinh tế các địa phương trong cả nước phù hợp với đặc điểm, lợi thế, nhằm thu hẹp dần khoảng cách phát triển kinh tế - xã hội giữa các vùng miền… Bởi thực tế cho thấy, sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam vẫn còn rất chênh lệch, trong khi một số địa phương, vùng trọng điểm phát triển nhanh, thì vẫn có nhiều địa bàn khó khăn, chất lượng lao động, hạ tầng hạn chế. Điều này cũng thể hiện ở kết quả thu hút đầu tư nước ngoài theo địa phương, với trên 70% tổng vốn FDI tập trung ở 11/63 tỉnh, thành phố, trong khi các địa phương này chỉ chiếm 33% dân số toàn quốc.
Trong dài hạn, cần tập trung thu hút đầu tư nước ngoài theo chiều sâu hướng vào các ngành có giá trị gia tăng cao, công nghệ mới trong các lĩnh vực sản xuất và dịch vụ khác nhau, như công nghệ thông tin và viễn thông, công nghiệp điện tử, năng lượng sạch, nông nghiệp công nghệ cao… Song song với đó, vẫn dành ưu tiên cho việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, tiếp tục phát triển kết cấu hạ tầng nhằm thúc đẩy quá trình tái cấu trúc nền kinh tế trên nền tảng công nghiệp 4.0.
Để đủ lực hợp tác ngang hàng
Mục tiêu lâu dài, quan trọng nhất của thu hút đầu tư nước ngoài là làm đòn bẩy, động lực để nâng cao chất lượng và khơi dậy tiềm lực của các DN nội địa. Vì vậy, việc đẩy mạnh liên kết với nước ngoài là điều kiện cần. Với mục tiêu đó, cần xác định rõ các lĩnh vực, ngành nghề, khu vực nào phải liên doanh, còn lại là đầu tư 100% vốn nước ngoài (trên cơ sở phù hợp với các cam kết quốc tế của Việt Nam). Trong giai đoạn tới, cần thực hiện quyết liệt vấn đề này để giảm bớt hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài hiện đang chiếm tuyệt đối.
Muốn vậy, Việt Nam cần có nhiều hơn đội ngũ DN trong nước làm nền tảng, đây chính là điều kiện đủ của việc liên kết. Trong mấy năm trở lại đây, chúng ta đã chứng kiến sự xuất hiện và lớn mạnh của một số tập đoàn kinh tế tư nhân lớn, đủ tầm vóc và quy mô để hợp tác ngang hàng với những tập đoàn nước ngoài. Sự hợp tác cùng phát triển của các tập đoàn này với đối tác nước ngoài là rất quan trọng, nhưng sự liên kết hỗ trợ của các tập đoàn này với DN khác trong nước để cùng lớn mạnh cũng rất cần thiết.
Ở một góc độ khác, trong năm vừa qua, số lượng DN trong nước thành lập mới tăng khá nhanh, song số rời bỏ thị trường cũng lớn. Bên cạnh đó, quy mô DN thành lập mới không lớn, lĩnh vực cũng hạn chế, vẫn tập trung vào bán buôn bán lẻ, xây dựng, bất động sản... Với thực trạng như vậy thì khối DN trong nước khó có thể liên kết với DN nước ngoài trong các lĩnh vực mà chúng ta kỳ vọng. Do vậy công tác quản lý nhà nước về phát triển DN nói chung và về đầu tư nước ngoài nói riêng cần chú trọng tới việc tạo môi trường kinh doanh lành mạnh để các DN nội địa đi lên bền vững.
Để nâng cao nội lực của DN trong nước, tạo điều kiện cho các DN này liên kết với DN nước ngoài, trước hết cần rà soát lại các quy định pháp lý hiện hành liên quan đến hình thức đầu tư, từ đó sớm có các quy định pháp lý khuyến khích đầu tư nước ngoài vào hình thức liên doanh, công ty cổ phần có sự tham gia của các DN Việt Nam. Cho phép đầu tư theo hình thức 100% vốn nước ngoài với các điều kiện nhất định, vào lĩnh vực và khu vực nhất định.
Bên cạnh đó, cần rà soát lại các ưu đãi đối với đầu tư nước ngoài, tập trung dành ưu đãi cho các hình thức đầu tư liên doanh, liên kết, đặc biệt đối với DN, tổ chức có tỷ lệ sở hữu vốn của các đối tác Việt Nam cao. Đồng thời xây dựng cơ chế khuyến khích, ưu đãi thoả đáng để tăng liên kết giữa đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước trong các lĩnh vực cần ưu tiên thu hút; áp dụng cơ chế này đối với các DN góp phần nâng cao giá trị gia tăng nội địa, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm và vị trí quốc gia trong chuỗi giá trị toàn cầu, và cũng áp dụng đối với các DN chuyển giao công nghệ và quản trị cho DN Việt Nam. Có chính sách khuyến khích đối với DN đầu tư nước ngoài đào tạo, nâng cao kỹ năng, trình độ cho lao động Việt Nam.
Đến nay sợi dây liên kết giữa hai khu vực DN trong nước và DN nước ngoài vẫn còn khá lỏng lẻo, khiến nguyên tắc cùng thắng “win - win” chưa đạt như kỳ vọng. |